Bản án 07/2021/HS-ST ngày 10/03/2021 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 07/2021/HS-ST NGÀY 10/03/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 10 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2021/TLST- HS, ngày 28 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:11/2021/QĐXXST-HS ngày 26/02/2021 đối với bị cáo:

Vàng Thị M - tên gọi khác: Không - sinh ngày 30/5/1964 tại huyện B, tỉnh Lào Cai.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Thôn P, xã M, huyện B, tỉnh Lào Cai.

Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 5/12; Dân tộc: Giáy; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt nam; Con ông Vàng Văn S (đã chết) và bà Vàng Thị C (đã chết).

Chồng: Lý Văn T (đã chết).

Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 1983, nhỏ sinh năm 1986.

Tiền sự: Không. Tiền án: Không.

Nhân thân: Bị cáo chưa có án tích, chưa bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2020. Hiện tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai. Có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo Vàng Thị M là bà Phạm Thị T Trợ giúp viên trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lào Cai. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án như sau: Khoảng 08 giờ ngày 13/12/2020, Vàng Thị M đi bộ vào chợ M gặp và mua của người phụ nữ không quen biết 10 (mười) gói ma túy được gói bằng giấy trắng với giá 500.000 (năm trăm nghìn) đồng. Vàng Thị M cho 10 gói ma túy mua được vào 01 lọ nhựa hình trụ tròn rồi cất giấu trong túi áo len bên phải đang mặc. Khoảng 11 giờ ngày 14/12/2020 Vàng Thị M đã đổi 03 gói ma túy cho 01 người phụ nữ dân tộc Dao không quen biết để lấy 03 (ba) bó củi. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 16/12/2020, tại nhà Vàng Thị M bán 01 gói ma túy cho Tráng A D, sinh năm 1970, trú tại thôn B, xã D, huyện B với số tiền 50.000 (năm mươi nghìn) đồng, thì bị tổ công tác của Công an huyện B phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Vàng Thị M số tiền 50.000 (năm mươi nghìn) đồng, 01 (một) lọ nhựa hình trụ tròn, bên trong có 06 (sáu) gói giấy trắng, trong các gói này đều chứa chất bột khô màu trắng, vón cục (Vàng Thị M khai nhận là Hêrôin và tiền vừa bán Hêrôin cho Tráng A D mà có); thu giữ của Tráng A D 01 (một) gói giấy trắng, bên trong chứa chất bột khô màu trắng, vón cục (Tráng A D khai nhận là Hêrôin vừa mua được của Vàng Thị M).

Ngày 16/12/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã ra quyết định trưng cầu giám định về ma túy đối với số vật chứng đã thu giữ của Vàng Thị M và Tráng A D ngày 16/12/2020.

Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu, tái niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 16/12/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai xác định:

+ Mẫu M1: 01 (một) lọ nhựa hình trụ tròn, có nắp vặn màu trắng bên trong có 06 (sáu) gói đều gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ. Bên trong mỗi gói đều chứa chất bột khô màu trắng, vón cục thu giữ của Vàng Thị M có tổng khối lượng là 0,47 (không phẩy bốn mươi bẩy) gam. Trích 0,08 (không phẩy không tám) gam tiến hành giám định, còn lại 0,39 (không phẩy ba mươi chín) gam hoàn trả cơ quan trưng cầu.

+ Mẫu M2: 01(một) gói giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong chứa chất bột khô màu trắng vón cục thu giữ của Tráng A D có khối lượng là 0,02 (khôn phẩy không hai) gam. Tiến hành lấy toàn bộ mẫu để giám định.

Kết luận giám định ma túy số 10 ngày 19/12/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: Mẫu M1: 0,47 (không phẩy bốn mươi bảy) gam; Mẫu M2: 0,02 (không phẩy không hai) gam đều là loại chất ma túy Heroine (Hêrôin).

Cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 26 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai, truy tố bị cáo Vàng Thị M về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị hội đồng xét xử:

+ Tuyên bố bị cáo Vàng Thị M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

+ Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vàng Thị M từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 tháng tù.

+ Về hình phạt bổ sung: Không cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

+ Về vật chứng: Áp dung khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 0,39 (không phẩy ba mươi chín) gam Hê rô in còn lai sau trích mẫu giám định cùng 01 lọ nhựa màu trắng, hình trụ tròn và 06 mảnh giấy trắng có dòng kẻ được tái niêm phong trong bì thư. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) là tiền bị cáo M bán ma túy mà có.

+ Về án phí: Buộc bị cáo Vàng Thị M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến của người bào chữa: Sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá chứng cứ cho rằng: Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Vàng Thị M về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xong cũng cần xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo, vì bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật hạn chế, sống ở vùng đặc biệt khó khăn, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo và nhận tội. Nên đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1,2 Điều 51Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vàng Thị M mức thấp nhất của khung hình phạt là 02 (hai) năm tù.

+ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh và hình phạt: Tại phiên toà hôm nay bị cáo Vàng Thị M khai nhận vào ngày 13/12/2020, tại chợ xã M, huyện B, bị cáo đã mua 10 gói nhỏ Hê rô in của một người phụ nữ không quen biết với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) mục đích để bán kiếm lời. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 16/12/2020 Vàng Thị M bán 01 gói ma túy cho Tráng A D với giá 50.000 đồng, thì bị Công an huyện B bắt quả tang. Ngoài ra bị cáo còn khai ngày 14/12/2020 đã đổi 03 gói ma túy cho người phụ nữ dân tộc dao không quen biết. Do chỉ có duy nhất lời khai nhận của bị cáo M, không có tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh, nên không đủ căn cứ xử lý đối với bị cáo về lần bán đổi ma túy ngày 14/12/2020, mà chỉ đủ căn cứ truy tố và xét xử bị cáo Vàng Thị M về tội “mua bán trái phép chất ma túy” đối với lượng ma túy thu giữ trên người bị cáo là 0,47 gam và 0,02 gam vừa bán cho Tráng A D. Tổng cộng là 0,49 gam Hê hô in, theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo M thực hiện là rất nghiêm trọng, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Gây mất trật tự, trị an ở địa phương, làm lan tràn tệ nạn nghiện ma túy, ảnh hưởng đến sức khỏe, suy thoái giống nòi. Để giữ nghiêm kỷ cương pháp luật, góp phần đẩy lùi và loại bỏ ma túy ra khỏi đời sống xã hội. Cần phải đưa bị cáo ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật và quyết định mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và đấu tranh phòng chống tội phạm.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo M không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, vì trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đều thành khẩn khai báo, bị cáo có mẹ đẻ được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhì.

Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho Vàng Thị M ngày 13/12/2020 tại chợ xã M, huyện B và người phụ nữ đổi 03 bó củi lấy 03 gói ma túy vào ngày 14/12/2020 tại nhà của Vàng Thị M ở thôn P, xã M, huyện B. Do Vàng Thị M không biết tên, tuổi và địa chỉ của những người phụ nữ này nên cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xử lý.

Đối với Tráng A D là người đã mua 01 (một) gói ma túy có khối lượng 0,02 (không phẩy không hai) gam của Vàng Thị M để sử dụng. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng Tráng A D không có mặt tại địa phương nên cơ quan điều tra chưa làm rõ được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[2] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo bán ma túy chưa thu được lợi nhuận, không có việc làm và thu nhập ổn định, nên không cần phải áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 điều 251 Bộ luật hình sự đối với bị cáo vẫn đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng gồm: 0,02 gam Hê rô in thu giữ của Tráng A D gửi giám định lưu mẫu không hoàn lại. 0,47 gam Hê rô in thu giữ của Vàng Thị M, trích mẫu 0,08 gam giám định không hoàn lại còn 0,39 gam Hê rô in là vật cấm tàng trữ lưu hành và 01 lọ nhựa màu trắng, hình trụ tròn và 06 mảnh giấy trắng có dòng kẻ, được tái niêm phong trong 01 bì thư, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) là số tiền bị cáo Vàng Thị M bán ma túy cho Tráng A De mà có.

[4] Về hành vi và quyết định tố tụng của Điều tra viên, cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện B, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và bị cáo, người bào chữa không có khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Về án phí: Bị cáo Vàng Thị M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1,2 Điều 51; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Toà án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vàng Thị M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2. Về mức hình phạt: Xử phạt bị cáo Vàng Thị M 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo 16/12/2020.

3. Xử lý vật chứng :

- Tịch thu tiêu hủy: 0,39 (không phẩy ba mươi chín) gam Hê rô in còn lại sau trích mẫu giám định cùng 01 lọ nhựa màu trắng, hình trụ tròn có nắp vặn và 06 mảnh giấy trắng có dòng kẻ và bì niêm phong thứ nhất gửi giám định. Tại mép dán của bì niêm phong có chữ ký ghi họ tên: Lầu A Hồ, Đặng Minh Đổng, Vàng Thị M; hình dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Trên một mặt bì niêm phong có ghi: “vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi bắt quả tang Vàng Thị M ngày 16/12/2020 tại thôn P, xã M, huyện B, tỉnh Lào Cai”.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Vàng Thị M, số tiền trên được niêm phong gửi tại kho bạc nhà nước huyện B, tỉnh Lào Cai, theo biên bản giao nhận tài sản số 10 /2020/BBGN - KBBX ngày 17/12/2020 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B và kho Bạc nhà nước huyện B.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Vàng Thị M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng)

5. Quyền kháng cáo đối với bản án: Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

6. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 07/2021/HS-ST ngày 10/03/2021 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:07/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bát Xát - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về