TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 5 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 07/2021/HS-ST NGÀY 09/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 09 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:145/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2020, quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 15/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Vũ Đình B, sinh ngày 23 tháng 12 năm 1976 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: đường M, Phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Thợ sơn; Học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn P; con bà: Vũ Thị L; Có vợ tên: Nguyễn Thị Ngọc M, có 01 người con, sinh năm 2012; Tiền án: Ngày 15/01/2003 bị Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 (chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 05/6/1998 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cướp giật tài sản công dân”; Ngày 30/11/1998 bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản công dân”, tổng hợp hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành là 60 (sáu mươi) tháng tù, bị cáo có kháng cáo, đến ngày 08/3/1999 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm và tuyên giữ nguyên y án sơ thẩm; Ngày 20/11/2003 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 (sáu) năm tù về tội “Cướp giật tài sản công dân”.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/8/2020 (có mặt tại phiên tòa).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1/ Ông Hứa N, sinh năm; Nơi cư trú: đường M, Phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
2/ Bà Vũ Thị L, sinh năm 1957; Nơi cư trú: đường M, Phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ ngày 04/8/2020, Nguyễn Vũ Đình B đang ở tiệm bắn cá trên đường Vĩnh Viễn, Quận 10 chơi game thì Nguyễn Ngọc H là bạn ngoài xã hội mới biết nhau lần đầu mượn điện thoại của B để gọi điện cho bạn và sau đó nhờ B chở đến khách sạn Mai Thy, địa chỉ số 176C Trần Bình Trọng, Phường 3, Quận 5, B đồng ý. B điều khiển xe máy hiệu Honda SCR biển số 59H1-187.38 chở H ngồi ở phía sau. Khi đến trước khách sạn Mai Thy, do thấy B có biểu hiện nghi vấn nên tổ tuần tra Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 5 yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Qua kiểm tra đã phát hiện bên trong túi quần bên trái phía trước của B có 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu, B khai là ma túy đá nên lực lượng công an đã đưa B, H cùng vật chứng đến Công an Phường 3, Quận 5 tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5, Nguyễn Vũ Đình B khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như đã nêu trên. Bảo khai số ma túy trên là do B làm trong tiệm bắn cá, thường lên điểm game cho khách nên nhiều khách cho B ma túy đá để sử dụng. B dồn các gói ma túy được khách cho được 01 (một) gói ma túy rồi cất vào trong túi quần bên trái phía trước để dành sử dụng, không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển. B không biết rõ lai lịch của H, chỉ biết H thường xuyên đến tiệm chơi game bắn cá, khi H nhờ chở đi qua khách sạn do thấy gần nên B đồng ý. B khai H không biết B tàng trữ trái phép ma túy trong người do B không nói cho H biết.
Nguyễn Ngọc H khai vào khoảng 14 giờ ngày 04/8/2020, H đang chơi ở tiệm game trên đường Vĩnh Viễn, Quận 10 thì H có mượn điện thoại của Nguyễn Vũ Đình B gọi cho bạn và nhờ B chở Hạnh đến khách sạn Mai Thy số 176C Trần Bình Trọng, Phường 3, Quận 5, Bảo đồng ý. Khi đến trước khách sạn thì B và H bị tổ tuần tra Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 5 dừng xe để kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện bên trong túi quần bên trái phía trước của B có 01 (một) gói nylon bên trong tinh thể không màu nghi là ma túy đá. H không biết B đang cất giữ ma túy trong người do B không nói cho H biết.
Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Vũ Đình B và hình dấu Công an Phường 3, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1258g (không phẩy một hai năm tám gam), loại Methamphetamine (số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số vụ 1335/2020/Q5, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Xuân Sang và Điều tra viên Ngô Hồng Quân); 01 (một) điện thoại di động màu đen, hiệu Itel, số Imei1:
353487100580366; 01 (một) xe máy màu đen, hiệu Honda SCR, biển số 59H1- 187.38, số khung: LWBTDH1A2B1001497, số máy: WH150MH-A- 11C00800.
Tại bản Kết luận giám định số: 1335/KLGĐ-H ngày 12/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận như sau: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Vũ Đình B và hình dấu Công an Phường 3, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1258g (không phẩy một hai năm tám gam), loại Methamphetamine.
Bản cáo trạng số: 136/CT-VKSQ5 ngày 23/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Vũ Đình B về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 5 giữ quyền công tố luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Vũ Đình B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Vũ Đình B với mức án từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù; về vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không tranh luận Bị cáo Nguyễn Vũ Đình B không có ý kiến bào chữa, không tranh luận và nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 5, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa công khai, bị cáo Nguyễn Vũ Đình B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận, bị cáo Nguyễn Vũ Đình B đã có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy với khối lượng 0,1258g (không phẩy một hai năm tám gam), loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng là đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xét bị cáo là người có năng lực hành vi, đủ khả năng nhận thức được việc làm của mình, biết việc tàng trữ trái phép các chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật mà Nhà nước nghiêm cấm, nhưng bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý tàng trữ chất ma túy nhằm mục đích sử dụng.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây nghiện và độc hại; gây mất trật tự xã hội ở địa phương, còn là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, bản thân bị cáo có nhân thân rất xấu. Do đó, cần phải có một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo; nhằm mục đích giáo dục bị cáo, bên cạnh đó có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[5] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Căn cứ Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định, để bị cáo có thể cải tạo thành người có ích cho xã hội và có thời gian để bị cáo cai nghiện ma túy.
[6] Về hình phạt bổ sung: Không xem xét áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố để xét xử và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai.
[8] Về xử lý vật chứng: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Vũ Đình B và hình dấu Công an Phường 3, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1258g (không phẩy một hai năm tám gam), loại Methamphetamine (số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số vụ 1335/2020/Q5, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Xuân Sang và Điều tra viên Ngô Hồng Quân). Xét đây là vật phạm pháp, Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.
01 (một) điện thoại di động màu đen, hiệu Itel, số Imei1:
353487100580366. Xét đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo B.
01 (một) xe máy màu đen, hiệu Honda SCR, biển số 59H1-187.38, số khung: LWBTDH1A2B1001497, số máy: WH150MH-A-11C00800 do ông Hứa Nhơn đứng tên chủ sở hữu, hiện ông N không còn cư trú tại địa phương, đi đâu không rõ. Bà Vũ Thị L khai chiếc xe là do bà mua của một người đàn ông, không rõ lai lịch, không làm thủ tục mua bán, chỉ đưa các giấy tờ xe, bà Loan cho bị cáo B mượn sử dụng. Do đó cần giao cho Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng tìm chủ sở hữu hợp pháp chiếc xe nêu trên trong thời gian nhất định, hết thời hạn trên không ai đến nhận thì trả lại cho bà L.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm h Khoản 1 Điều 52; Khoản 1 Điều 53; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Vũ Đình B 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 04 tháng 8 năm 2020.
Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a Khoản 2, điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Vũ Đình B và hình dấu Công an Phường 3, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1258g (không phẩy một hai năm tám gam), loại Methamphetamine (số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số vụ 1335/2020/Q5, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Xuân Sang và Điều tra viên Ngô Hồng Quân).
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Vũ Đình B: 01 (một) điện thoại di động màu đen, hiệu Itel, số Imei1: 353487100580366.
Giao cho Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng tìn chủ sỡ hữu hợp pháp 01 (một) xe máy màu đen, hiệu Honda SCR, biển số 59H1-187.38, số khung:
LWBTDH1A2B1001497, số máy: WH150MH-A-11C00800 trong thời gian 03 (ba) tháng, hết thời hạn trên không ai đến nhận thì trả lại cho bà Vũ Thị L.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh).
Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Luật phí và lệ phí.
Bị cáo chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 07/2021/HS-ST ngày 09/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 07/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 5 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về