Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN G, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/202 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29/01/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  thụ  lý  số:  15/2020/TLST-HNGĐ  ngày 08/10/2020 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 11/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Lò Thị Th, sinh năm 1995

Địa chỉ: Bản N , xã Bản B, huyện Tam Đ, tỉnh Lai Ch, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Lò Văn Th, sinh năm 1989

Địa chỉ: Bản C, xã Chiềng Đ, huyện Tuần G, tỉnh Điện B, có đơn xin xét xử vắng mặt. Hiện anh Th đang chấp hành án tại tại phân trại số 4, trại giam số 6, xã Nam Ng, huyện Nam Đ, tỉnh Nghệ A.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 02/10/2020, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Lò Thị Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lò Văn Th tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2010 song đến ngày 28/3/2018 mới tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Bản B, huyện Tam Đ, tỉnh Lai Ch và sinh sống tại xã Bản B, huyện Tam Đ, tỉnh Lai Ch. Quá trình chung sống chỉ hạnh phúc được khoảng 3 năm thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, anh Th không chịu khó làm ăn quan tâm chăm sóc gia đình còn sử dụng ma túy. Từ năm 2014 anh Th đã bị bắt và xét xử về tội mua bán trái phép chất ma túy và đi chấp hành án tại trại giam Nà T, xã Nà T, Thành Phố Điện Biên Ph, tỉnh Điện B đến năm 2017 ra trại trở về sinh sống cùng chị Th được hơn một tháng thì anh Th đi làm thuê và lại tái nghiện, Khi chị sinh cháu thứ 2 được 6 ngày thì anh Th không về ở cùng chị nữa, sau đó chị mới biết năm 2019 anh Th lại tiếp tục bị bắt và hiện đang cải tạo tại phân trại số 4, trại giam số 6, xã Nam Ngh, huyện Nam Đ, tỉnh Nghệ An. Từ đó đến nay chị không giữ liên lạc và không thăm nom gì anh Th nữa do anh Th đã gây rất nhiều đau khổ cho chị. Xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Th. Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống anh chị có 02 con chung: Cháu thứ nhất là Lò Duy L sinh ngày 03/11/2011, cháu thứ 2 là Lò Duy M sinh ngày 02/3/2018, hiện cả hai cháu đang ở với chị. Chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai đến khi thành niên và không yêu cầu anh Th cấp dưỡng. Về điều kiện nuôi  con:  Chị  làm  ruộng  và  làm  thuê  với  mức  thu  nhập  khoảng  5.000.000 đồng/tháng, đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con chung.

Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, trả nợ lấy về: Không có.

Ngày 12/10/2020, Tòa án nhân dân huyện Tuần G đã ra Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ số 01/2020/QĐ - UTTA, Ủy thác cho Tòa án nhân dân huyện Nam Đ, tỉnh Nghệ A giao Thông báo thụ lý vụ án cho anh Th và tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật. Tại Bản tự khai ngày 19/11/2020 và biên bản lấy lời khai đương sự ngày 19/11/2020: Anh Th nhất trí về quan hệ hôn nhân có đăng ký kết hôn như chị Th trình bày. Anh thừa nhận anh chị có mâu thuẫn về tính cách, quan điểm sống bất đồng. Do anh nghiện ma túy từ năm 2017 nên ngày 31/12/2019 anh bị bắt và bị xử 30 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” hiện anh đang chấp hành án tại phân trại số 4, trại giam số 6, xã Nam Ngh, huyện Nam Đ, tỉnh Nghệ A. Về quan điểm giải quyết: Anh không nhất trí ly hôn, mong muốn vợ chồng quay về đoàn tụ vì còn tình cảm yêu thương với chị Th, còn nếu chị Th nhất quyết ly hôn thì anh không biết.

Về con chung: Anh thừa nhận anh chị có 02 con chung như chị Th trình bày, nếu phải ly hôn anh đề nghị được giao cháu Lò Duy L cho ông bà nội của cháu L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Về quan hệ tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh có đơn xin vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và đề nghị xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật. Ngày 17/12/2020 Tòa án nhân dân huyện Tuần G đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật. Ngày 29/01/2021, Tòa án nhân dân huyện Tuần G mở phiên tòa xét xử theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 11/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuần G. Tại phiên tòa ngày 29/01/2021, chị Th vẫn giữ nguyên quan điểm như trong đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản lấy lời khai. 

Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật: Về thẩm quyền và trình tự thủ tục Thẩm phán, thư ký Tòa án và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân chấp nhận cho chị Lò Thị Th được ly hôn với anh Lò Văn Th theo Điều 56 Luật hôn nhân gia đình. Về con chung: Căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình: Chấp nhận việc giao hai cháu Lò Duy L, sinh ngày 03/11/2011 và cháu Lò Duy M, sinh ngày 02/3/2018 cho chị Lò Thị Th trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên và có khả năng lao động, chấp nhận việc chị Th không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị Th phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Căn cứ nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo và địa chỉ của các đương sự, Tòa án xác định đây là vụ án: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuần Gi theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố Tụng dân sự.

[2]. Về pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án: Chị Lò Thị Th và anh Lò Văn Th kết hôn ngày 28/3/2018 đến thời điểm giải quyết, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đang có hiệu lực, do vậy Tòa án sẽ áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Th và anh Th chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2010 nhưng đến năm 2018 mới tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của chị Th, của anh Th, tại các biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 30/11/2020 tại bản C, xã Chiềng Đ, huyện Tuần G, biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 03/12/2020 tại bản Nà Út, xã bản B, huyện Tam Đ, tỉnh Lai Ch đủ cơ sở khẳng định nguyên nhân mâu thuẫn dẫn đến chị Th không còn tình cảm và xin ly hôn do vợ chồng tính tình không hợp, anh Thanh không tu chí làm ăn nghiện ma túy dẫn đến phải chấp hành án từ năm 2014 đến 2017 tại trại giam Nà T, Thành Phố Điện Biên Ph. Sau khi ra trại năm 2017 đến khi chị Th sinh cháu thứ 2 được 6 ngày thì anh Th đi làm không thấy về nhà. Đến 31/12/2019 anh Th bị bắt và hiện đang chấp hành án tại trại giam số 6, Cục C10, Bộ Công an. Từ những phân tích và nhận định trên đủ cơ sở khẳng định hôn nhân giữa chị Th và anh Th đã hết sức trầm trọng, anh Th đã không làm đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của người chồng, người cha trong gia đình, vi phạm pháp luật hình sự và đang phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, anh Th đã gây nên những vất vả khó khăn và đau khổ cho chị Th và gia đình. Mục đích xây dựng cuộc sống hôn nhân là vợ chồng gần gũi, thương yêu chăm sóc, quý trọng giúp đỡ lẫn nhau không thực hiện được, việc chị Th xin ly hôn với anh Th cần được chấp nhận theo khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Anh chị có 02 con chung: Cháu thứ nhất là Lò Duy L sinh ngày 03/11/2011, cháu thứ 2 là Lò Duy M sinh ngày 02/3/2018, hiện cả hai cháu đang ở với chị Th. Chị Th có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu đến khi thành niên và không yêu cầu anh Th cấp dưỡng. Ý kiến anh Th nếu phải ly hôn anh xin được nuôi cháu Lò Duy L, do anh đang chấp hành án nên giao cháu cho ông bà nội của cháu nuôi dưỡng. HĐXX xét thấy: Chị Th có nơi cư trú ổn định và hoàn toàn khỏe mạnh, chị làm ruộng và làm thuê với mức thu nhập khoảng 5000.000 đồng/tháng, đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Tại đơn nguyện vọng của cháu Lò Duy L, cháu có nguyện xin được ở với mẹ. Căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình: Quyết định chấp nhận ý kiến của chị Lò Thị Th giao 2 cháu Lò Duy L, sinh ngày 03/11/2011, cháu Lò Duy M sinh ngày 02/3/2018 cho chị Lò Thị Th trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên và có khả năng lao động, chấp nhận sự tự nguyện chị Th không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con. Việc anh Th xin nuôi cháu L và tạm giao cho ông bà nội nuôi dưỡng là không có căn cứ chấp nhận.

[5]. Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, trả nợ lấy về: Chị Th và anh Th đều khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6]Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 1 Điều 228 và Điều 273 Bộ Luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình:

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho Nguyên đơn chị Lò Thị Th được ly hôn với bị đơn anh Lò Văn Th.

2. Về con chung: Giao 2 cháu Lò Duy L, sinh ngày 03/11/2011, cháu Lò Duy M sinh ngày 02/3/2018 cho chị Lò Thị Th trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên và có khả năng lao động. Chấp nhận sự tự nguyện chị Th không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, nợ lấy về: Chị Th và anh Th đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí DSST: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi Cục Th i hành án dân sự huyện Tuần G theo biên lại thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2010/05690 ngày 08/10/2020, chị Lò Thị Th đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lò Thị Th được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 29/01/2021; Anh Lò Văn Th vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về