Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 26/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA -VŨNG TÀU

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

 Ngày 26-02-2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 209/2020/TLST-HNGĐ ngày 06-7-2020 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04-01-2021, giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Bà Lê Thị Thu A, sinh năm 1995; HKTT: ấp 1, xã 1, huyện 2, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; (vắng mặt)

-Bị đơn: Ông Trần Trọng B, sinh năm 1988; nơi cư trú: ấp 1, xã 2, huyện 2, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

-Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lê Thị Thu A trình bày:

Về hôn nhân: Bà A và ông B tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2013, được Ủy ban nhân dân xã Long Mỹ cấp giấy chứng nhận kết hôn số 01 ngày 16/6/2014. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc, có tổ chức hỏi cưới. Sau khi lấy nhau vợ chồng về chung sống tại ấp 1, xã 2, huyện 2. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân do ông B nợ nần nhiều bà A phải đứng ra trả nợ thay khiến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau, chung sống không còn hạnh phúc; từ đầu năm 2019 đến nay bà A và ông B đã ly thân, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc và hòa giải được với nhau . Nhận thấy giữa bà A và ông B không còn tình cảm, không còn quan tâm tới nhau nữa nên bà A yêu cầu được ly hôn với ông B.

Về con chung: Bà A và ông B có 02 con chung là Trần Lê Hoàng C, sinh ngày 16/3/2014 và Trần Lê Tuyết D, sinh ngày 16/7/2016, hiện đang sống cùng bà A; bà A yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu ông B cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà A không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài liệu chứng cứ: Nguyên đơn bà A đã giao nộp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ, gồm: Giấy chứng nhận kết hôn, giấy khai sinh con, chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu gia đình, giấy xác nhận địa chỉ cư trú của bị đơn.

-Bị đơn ông Trần Trọng B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được lời khai, không tiến hành phiên hòa giải được.

-Qúa trình tố tụng: Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt; bị đơn ông B được triệu tập hợp lệ lần hai nhưng vắng mặt.

-Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu tham gia phiên tòa phát biểu:

Về tố tụng: Việc Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ thụ lý vụ án là đúng theo quy định của pháp luật. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, HĐXX cũng như việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án này đúng theo những quy định của BLTTDS, tuy nhiên bị đơn không chấp hành theo triệu tập của Tòa án là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Về yêu cầu của nguyên đơn thì thấy, hôn nhân giữa bà A và ông B là hôn nhân hoàn toàn hợp pháp, có cơ sở xác định giữa hai bên có mâu thuẫn, bất đồng trong cuộc sống, hai bên đã ly thân, trong thời gian ly thân hai bên không hòa giải để hàn gắn tình cảm với nhau được, vì thế hai bên không thể về chung sống hạnh phúc bên nhau, mục đích hôn nhân không đạt nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà A. Bà A và ông B có 02 con chung là Trần Lê Hoàng C, sinh ngày 16/3/2014 và Trần Lê Tuyết D, sinh ngày 16/7/2016, hiện đang sống cùng bà A, bà A tuy không có tài liệu chứng minh về thu nhập để nuôi con, nhưng từ khi ly thân con chung vẫn được bà A chăm sóc, nuôi dưỡng đầy đủ về học tập và sinh hoạt; ông B không đến Tòa án để nêu ra ý kiến của mình nên có cơ sở giao con chung cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng. Bà A không yêu cầu giải quyết tài sản chung và nợ chung nên không xem xét. Từ phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ tranh chấp: Bà A yêu cầu ly hôn với ông B, yêu cầu giao con chung cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng nên xác định đây là quan hệ tranh chấp về “ ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự (viết tắt là BLTTDS).

[1.2] Về thẩm quyền: Theo đơn khởi kiện và theo kết quả xác minh của Tòa án (BL 32) ông B có địa chỉ cư trú tại Huyện Đất Đỏ, căn cứ điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 5 Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Đất Đỏ.

[1.3] Về người tham gia tố tụng: Bị đơn ông B dù đã được Tòa án tống đạt Giấy triệu tập, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; bà A có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và được Tòa án chấp nhận nên theo quy định tại tại các Điều 173, 177, 179, 227 và Điều 228 BLTTDS HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt ông B, bà A.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Bà A và ông B có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Long Mỹ cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (BL 01-02), theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình thì hôn nhân giữa bà A, ông B là hôn nhân hợp pháp.

[2.2] Về mâu thuẫn: Theo bà A trình bày vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân do ông B nợ nần nhiều bà A phải đứng ra trả nợ thay khiến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau, chung sống không còn hạnh phúc, từ đầu năm 2019 đến nay vợ chồng đã sống ly thân. Ông B dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt, chứng tỏ ông B không có thiện chí trong việc giải quyết mâu thuẫn gia đình , hàn gắn tình cảm vợ chồng và duy trì cuộc sống chung với bà A. Theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình thì “vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”; bà A và ông B tuy còn sống chung nhưng vợ chồng đã ly thân, mạnh ai lấy sống, con cái do bà A chăm sóc, không được ông B giúp đỡ, chia sẻ; cho thấy, mâu thuẫn của vợ chồng đã thật sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà A đối với ông B.

[2.3] Về nuôi con chung: Bà A và ông B có 02 con chung là Trần Lê Hoàng C, sinh ngày 16/3/2014 và Trần Lê Tuyết D, sinh ngày 16/7/2016, hiện đang sống cùng bà A; bà A yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình thì “vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con” nhưng ông B không có mặt tại phiên tòa để thể hiện rõ quan điểm của mình về vấn đề này. Tuy bà A không có tài liệu chứng minh về thu nhập của mình nhưng từ khi vợ chồng ly thân, các con chung được bà A chăm lo việc học tập đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Để đảm bảo cho việc học tập, sinh hoạt của con chung được ổn định, phù hợp với lợi ích của các con chung nên cần giao các con chung cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng.

[2.4] Về cấp dưỡng cho con: Do bà A không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.

[2.5] Về tài sản chung và nợ chung: Do bà A không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.

[2.6] Về tài liệu chứng cứ: Các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn giao nộp phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 95 BLTTDS nên được chấp nhận.

Theo quy định khoản 2 và 4 Điều 91 BLTTDS ông B có nghĩa vụ đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh để bảo về quyền lợi của mình; ông B được Tòa án tống đạt hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, không cung cấp chứng cứ để xác nhận hoặc phản bác yêu cầu của nguyên là từ bỏ quyền tự chứng minh để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Do bị đơn ông B vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án nên HĐXX chỉ xem xét theo lời trình bày và các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn giao nộp, tài liệu chứng cứ do Tòa án thu thập là phù hợp với quy định tại các Điều 93, 94, 95, 96 BLTTDS.

[3] Về án phí: Đối với vụ án hôn nhân và gia đình thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên bà A phải chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

[4] Về quyền kháng cáo: Bà A, ông B và Viện kiểm sát nhân dân được quyền kháng cáo theo quy định của BLTTDS.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

-Các Điều 19, 51, 56, 57, 59, 60, 81, 82, 83, 84, 85, 110, 116 và 117 Luật Hôn nhân và gia đình;

-Khoản 1 Điều 28, các Điều 35, 39, 147, 173, 177, 179, 227, 228, 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

-Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội; Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Thu A đối với ông Trần Trọng B.

1.1. Về hôn nhân: Bà Lê Thị Thu A được ly hôn với ông Trần Trọng B.

1.2. Về con chung: Bà Lê Thị Thu A được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là Trần Lê Hoàng C, sinh ngày 16/3/2014 và Trần Lê Tuyết D, sinh ngày 16/7/2016; ông B có nghĩa vụ giao con chung cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Ông B không phải cấp dưỡng cho con do bà A không có yêu cầu.

Sau khi ly hôn bà A, ông B đều có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung. Ông B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà bà A và những người thân thích không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì quyền lợi của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng cho con.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà A không yêu cầu Toà án giải quyết.

2. Về án phí:

- Bà Lê Thị Thu A phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) bà A đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số TU/2019/00000828 ngày 02/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ. Bà A đã nộp đủ án phí.

- Ông Trần Trọng B không phải chịu án phí.

3.Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Nguyên đơn và VKSND cùng cấp được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, VKSND cấp trên được quyền kháng cáo trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 26-02-2021); bị đơn không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

4. Về thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 26/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về