Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 26/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:349/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định xét xử số: 42/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên toà số: 10/2021/QĐST- HNGĐ ngày 03 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Trúc L, sinh năm 1995 (có đơn xin xét xử vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

- Bị đơn: Anh Võ Văn N, sinh năm 1993 (Vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26 tháng 11 năm 2020, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Lê Thị Trúc L là nguyên đơn trình bày: Chị xác lập quan hệ hôn nhân với anh Võ Văn N vào năm 2017 và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc và có với nhau 01 con chung tên là Võ Thị Cát T, sinh ngày 22 tháng 5 năm 2017. Đến khoảng tháng 8/2020 thì bắt đây phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do hai bên bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cự cãi, cuộc sống hôn nhân không hoà hợp nên đã ly thân với nhau từ ngày 01/8/2020 cho đến nay. Nhận thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, hôn nhân không thể kéo dài được nữa nên chị yêu cầu ly hôn với anh N.

- Về con chung: Chị Lê Thị Trúc L yêu cầu nuôi dưỡng con chung Võ Thị Cát T, sinh ngày 22 tháng 5 năm 2017, không yêu cầu anh Võ Văn N cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị Trúc L khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện C đã tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để các đương sự có cơ hội đoàn tụ và thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên tại các phiên họp anh N đều vắng mặt không có lý do nên vụ án không tiến hành hòa giải được. Do đó, Tòa án đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa hôm nay, chị Lê Thị Trúc L vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt. Anh Võ Văn N vắng mặt không có lý do nên không có ý kiến trình bày.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự tại phiên tòa cho rằng việc thụ lý vụ án “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” là đúng quan hệ tranh chấp. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đảm bảo đúng quy định. Về đưa người tham gia tố tụng, Tòa án đã đưa đầy đủ trong hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay nên việc xét xử đúng pháp luật.

Về nội dung: Vị đại diện Viện kiểm sát đã phân tích nội dung vụ án, đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đơn khởi kiện, lời khai, lời trình bày của nguyên đơn, thái độ của phía bị đơn anh Võ Văn N đã bỏ mặc không cùng chị Lê Thị Trúc L xây dựng gia đình hạnh phúc. Anh Võ Văn N mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ, nhưng cố tình vắng mặt, cho thấy anh Nkhông có thiện chí muốn hàn gắn, đoàn tụ. Vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Lê Thị Trúc L. Về tài sản chung và nợ chung: chị Lê Thị Trúc L khai không có không yêu cầu nên đề nghị không xem xét. Về con chung: do con chung Võ Thị Cát T, sinh ngày 22 tháng 5 năm 2017 là con gái nên giao cho chị Lê Thị Trúc L được quyền nuôi con là phù hợp, chị L không yêu cầu anh N cấp dưỡng nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật của vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Bị đơn cư trú tại Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh. Sau khi thụ lý, Tòa án đã ra thông báo về việc thụ lý vụ án và tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định tại Điều 196, 208, 209, 210 và Điều 211 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên vụ án không tiến hành hòa giải được do bị đơn vắng mặt đến lần thứ hai. Tại phiên tòa hôm nay anh N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1, 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Võ Văn N.

[2] Về mặt nội dung: Chị Lê Thị Trúc L và anh Võ Văn N xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2017, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã An Phú tân, huyện C, tỉnh Trà Vinh cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 04/5/2017, đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Trong quá trình chung sống chị L cho rằng do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm với anh Nhựt, chị L và anh N đã sống ly thân với nhau hơn từ tháng 8/2020 đến nay. Trong thời gian ly thân anh N không gặp chị L để hàn gắn quan hệ vợ chồng, anh N cũng không còn quan tâm, chăm sóc chị L và con chung. Đối với anh N đã được Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần đến phiên hòa giải nhưng anh N không đến. Tại các phiên tòa, anh N cũng vắng mặt không có lý do. Điều đó cho thấy anh N cũng không có thiện chí mong muốn đoàn tụ. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án tiến hành xác minh về mâu thuẫn giữa chị L và anh N thì theo bà Lê Thị Bé C là mẹ ruột anh N cho rằng giữa chị L và anh N thường xuyên cự cãi nhau, ghen tuông vô cớ, vợ chồng sống không tin tưởng nhau và không còn chung sống từ tháng 10/2020 đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm của chị L và anh N không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L, chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C.

[3] Về con chung: Hiện tại cháu Võ Thị Cát T, sinh ngày 22/5/2017 đang sống với chị L. Xét thấy con chung là bé gái, nếu giao cho chị L nuôi dưỡng sẽ đảm bảo cho sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của cháu nên giao cháu Cát T cho chị L được quyền nuôi con sau khi ly hôn.

Anh Võ Văn N có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị Trúc L không yêu cầu anh Võ Văn N cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như việc cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị Trúc L trình bày không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí: Chị Lê Thị Trúc L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 5; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ các Điều 51, 53, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Trúc L.

1. Về hôn nhân: Chị Lê Thị Trúc L được ly hôn với anh Võ Văn N.

2. Về con chung: giao cháu Võ Thị Cát T, sinh ngày 22 tháng 5 năm 2017 cho chị L được quyền nuôi con sau khi ly hôn.

Anh Võ Văn N có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị Trúc L không yêu cầu anh Võ Văn N cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như việc cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị Trúc L trình bày không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Chị Lê Thị Trúc L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số 0004937 ngày 07 tháng 12 năm 2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Trà Vinh.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 26/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về