Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 26/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 971/2020/TLST - HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 142/2020/QĐXX-ST ngày 09 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2021/QĐST - HPT ngày 07/01/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Dương Thị Ánh T, sinh năm: 1995. Địa chỉ: Thôn B, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; chỗ ở: Ấp P, xã T, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

Bị đơn: Anh Phạm Huy C, sinh năm: 1993. Địa chỉ: Thôn B, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn lập ngày 30-9-2020 và các lời khai tại Tòa án chị Dương Thị Ánh T trình bày: Chị T và anh Phạm Huy C xây dựng gia đình với nhau vào năm 2016, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, thành phố V. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, không ai mai mối, ép buộc. Quá trình chung sống hạnh phúc nên sinh được một người con. Sau khi sinh con xong anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh C thay đổi tính tình, thường xuyên uống rượu, không quan tâm đến vợ con, không cùng chị tạo dựng kinh tế xây dựng gia đình mà mỗi lần uống rượu về còn kiếm chuyện gây gổ, đánh đập chị, vì con còn quá nhỏ nên chị cố gắng chịu đựng và khuyên nhủ anh C thay đổi nhưng anh C vẫn bỏ ngoài tai tất cả những lời khuyên nhủ của chị do đó anh chị đã ly thân từ tháng 7/2020 đến nay, không còn ai quan tâm đến nhau. Tại phiên Tòa hôm nay chị T xác định chị không còn tình cảm gì với anh C nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị T được ly hôn với anh Phạm Huy C.

Về con chung: Anh chị có một con chung là cháu Phạm Hoàng Y, sinh ngày 09-9-2016. Từ khi ly thân đến nay, cháu Y sống cùng với anh C, chị đồng ý giao con cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (18 tuổi), chị T không cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án cho anh Phạm Huy C nhưng không tống đạt được cho anh C vì anh C không ở nhà nên Tòa án đã tiến hành niêm yết Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho anh C nhưng vẫn không thấy anh C đến Tòa làm việc. Ngày 19-11-2020 Tòa án đã tiến hành xác minh tại thôn B, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, kết quả xác minh cho biết anh C và chị T là vợ chồng, anh C có hộ khẩu thường trú và sinh sống tại thôn B, xã L, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, vợ chồng anh C và chị T mâu thuẫn nên chị T đã bỏ về nhà mẹ ruột sinh sống chứ không còn sống chung với anh C. Như vậy, Tòa án đã tiến hành đầy đủ các biện pháp thu thập chứng cứ nhưng anh C vẫn cố tình vắng mặt, không hợp tác để giải quyết vụ việc. Vì vậy căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu của nguyên đơn cung cấp Tòa án tiến hành giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của pháp luật, việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến nay không có gì sai phạm. Về nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu do nguyên đơn cung cấp, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của chị T, giao cháu Phạm Hoàng Y cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành, chị T không cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Phạm Huy C có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn B, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nay chị Dương Thị Ánh T có đơn khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu. Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 179, điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh C.

[2] Về hôn nhân: Chị T và anh C xây dựng gia đình với nhau vào năm 2016, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống hạnh phúc nên sinh được một người con, sau đó anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình, quan điểm sống trái ngược nhau, không tôn trọng và tin tưởng nhau, không có sự quan tâm, yêu thương, chăm sóc trong gia đình, không lo làm ăn để tạo dựng kinh tế xây dựng cuộc sống gia đình mà anh C hay uống rượu, về nhà chửi mắng, đánh đập chị T nên anh chị đã tự nguyện ly thân từ tháng 7 năm 2020 đến nay. Tại phiên tòa, chị T xác định không còn tình cảm với anh C. Do đó mâu thuẫn anh chị trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị T xin ly hôn với anh C. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Dương Thị Ánh T, chị Dương Thị Ánh T được ly hôn với anh Phạm Huy C.

[3] Về con chung: Có 01 (một) con chung là cháu Phạm Hoàng Y, sinh ngày 09-9-2016. Từ khi ly thân đến nay, cháu Y sống cùng với anh C, chị T có nguyện vọng giao cháu Y cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (tuổi), chị T không cấp dưỡng nuôi con. Xét nguyện vọng của chị T về việc giao con chung cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo duy trì cuộc sống ổn định của con chung. Căn cứ vào các điều kiện cho sự phát triển tốt về thể chất, đảm bảo việc học hành và sự phát triển tốt về tinh thần. Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao cháu Phạm Hoàng Y, sinh ngày 09-9-2016 cho anh Phạm Huy C được trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (18 tuổi), chị Dương Thị Ánh T không cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Dương Thị Ánh T phải chịu án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 179, điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị Ánh T.

Chị Dương Thị Ánh T được ly hôn với anh Phạm Huy C.

Anh Phạm Huy C được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phạm Hoàng Y, sinh ngày 09-9-2016 đến tuổi trưởng thành (18 tuổi). Chị Dương Thị Ánh T không cấp dưỡng nuôi con. Chị Dương Thị Ánh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trên cơ sở lợi ích của con, trường hợp yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về án phí: Chị Dương Thị Ánh T nộp 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0007102 ngày 28/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thành tiền án phí. Chị Dương Thị Ánh T đã nộp đủ án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 26/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về