Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 23/02/2021 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/02/2021 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 23 tháng 02 năm 2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hồng Dân mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 242/2020/TLST–HNGĐ, ngày 09 tháng 10 năm 2020 về việc tranh chấp xin ly hôn và nuôi con theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2021/QĐXXST–HNGĐ, ngày 07 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Mỹ L, sinh năm 1990 Địa chỉ: Ấp B, xã L, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn C, sinh năm 1987 Địa chỉ: Ấp B, xã L, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị Trần Thị Mỹ L có mặt; anh Lê Văn C vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Thị Mỹ L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh C có tổ chức đám cưới trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lộc Ninh, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 08/8/2014. Trong thời gian đầu, vợ chồng anh chị chung sống với nhau hạnh phúc nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẩn do vợ chồng anh chị thường xuyên cự cải bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh C thường xuyên nhậu nhẹt, ghen tuông vô cớ và hay đánh đập chị L nhiều lần và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng tháng 8 năm 2020 cho đến nay. Nay chị L nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị L yêu cầu được ly hôn với anh Lê Văn C.

Về quan hệ con chung: Chị L xác định trong quá trình chung sống, giữa chị và anh C có 02 người con chung là cháu Lê Thị Xuân Đ, sinh ngày 23/01/2010 và Lê Thị Xuân Mai, sinh ngày 23/01/2010. Hiện tại 02 cháu Đào và Mai đang sống với chị L. Nay chị L yêu cầu được nuôi 02 con nhưng không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị L không có yêu cầu gì khác.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 24 tháng 11 năm 2020 bị đơn anh Lê Văn C trình bày: Anh thống nhất với lời trình bày của chị Trần Thị Mỹ L, anh có ý kiến như sau: Về hôn nhân không đồng ý ly hôn với chị Trần Thị Mỹ L, vì anh con thương chị L, anh C yêu cầu Tòa án hàn gắn cho anh và chị L sống chung để tiếp tục nuôi con; Về con chung: anh C đồng ý để chị L nuôi cháu Mai và cháu Đào và anh không phải cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung: anh Lê Văn C không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, anh không có yêu cầu gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định pháp luật.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình; Bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có mặt; Bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Trần Thị Mỹ L được ly hôn với anh Lê Văn C.

2. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao cháu Lê Thị Xuân Đ, sinh ngày 23/01/2010 và cháu Lê Thị Xuân Mai, sinh ngày 23/01/2010 cho chị Trần Thị Mỹ L nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, anh Lê Văn C không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Sau khi ly hôn, anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở và được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về quan hệ tài sản: Chị Trần Thị Mỹ L và anh Lê Văn C không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

Ngoài ra đương sự còn phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Trần Thị Mỹ L khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Lê Văn C và yêu cầu giải quyết về con chung nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án thụ lý giải quyết vụ án về “Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con” là đúng quy định.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Lê Văn C có nơi đăng ký thường trú tại ấp Nhụy Cầm, xã Vĩnh Lộc, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Bị đơn anh Lê Văn C vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Lê Văn C.

Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Mỹ L và anh Lê Văn C có tổ chức đám cưới với nhau trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 06/01/2011 nên quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh C là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Trong quá trình chung sống, chị Trần Thị Mỹ L và anh Lê Văn C xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường cãi nhau, anh C nhiều lầm đánh đập chị L và từ đó vợ chồng đã ly thân, nay chị yêu cầu ly hôn với anh Lê Văn C, anh C không đồng ý. Hội đồng xét xử, xét thấy: Mâu thuẫn gia đình của chị L và anh C làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vợ chồng phải có nghĩa vụ sống chung với nhau, thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau nhưng chị L và anh C không thực hiện được. Mặc dù hai bên hòa giải hàn gắn nhiều lần nhưng không đoàn tụ được. Từ đó Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cho chị Trần Thị Mỹ L được ly hôn với anh Lê Văn C.

[2] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống chị L và anh C xác định giữa anh chị có 02 người con chung là Lê Thị Xuân Đ, sinh ngày 23/01/2010 và Lê Thị Xuân Mai, sinh ngày 23/01/2010. Hiện tại cháu Đào và Mai đang sống cùng chị L. Nay chị L yêu cầu được nuôi con nhưng không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con thì anh C đồng ý. Đồng thời, cháu Đào và cháu Mai có nguyện vọng theo sống cùng chị L. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự thỏa thuận nuôi con chung giữa chị L và anh C.

[3] Về quan hệ tài sản: Chị Trần Thị Mỹ L và anh Lê Văn C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí: Buộc chị Trần Thị Mỹ L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

Về ý kiến phát biểu việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử xét thấy việc đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

- Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị Mỹ L.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Trần Thị Mỹ L được ly hôn anh Lê Văn C;

[2] Về con chung: Tiếp tục giao cháu Lê Thị Xuân Đ, sinh ngày 23/01/2010 và Lê Thị Xuân Mai, sinh ngày 23/01/2010 cho chị Trần Thị Mỹ L trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, anh Lê Văn C không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Sau khi ly hôn, anh Lê Văn C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở và được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật;

[3] Về tài sản chung: chị Trần Thị Mỹ L và anh Lê Văn C không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét, giải quyết;

[4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Trần Thị Mỹ L phải nộp số tiền là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Do chị Trần Thị Mỹ L đã dự nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0003268, ngày 09 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nay chuyển thu toàn bộ số tiền trên thành án phí.

Đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 23/02/2021 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về