Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 23/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG ANA, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 23 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Krông Ana xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 198/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trương Thị Hồng T, sinh năm 1992, (có mặt).

Địa chỉ: Số nhà 04 N, tổ dân phố 6, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh V, sinh năm 1990, (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn 4, xã Q, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 30/9/2020 và trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Trương Thị Hồng T trình bày:

Chị kết hôn với anh Nguyễn Thanh V trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện K, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 27/9/2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống thuận hòa hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xảy ra cãi vã. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không khắc phục được và anh chị đã sống ly thân từ đầu năm 2018 cho đến nay. Chị T xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân với anh V nên yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh V.

Về con chung: Chị T và anh V có 01 con chung là Nguyễn Phương Tuệ N, sinh ngày 27/6/2017. Hiện cháu N đang sống với chị T. Khi ly hôn chị T có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Thanh V đã được thông báo về việc thụ lý vụ án, triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án làm việc nên không tiến hành lấy được lời khai của anh V.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ của những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, về thời hạn chuẩn bị xét xử, quyết định đưa vụ án ra xét xử, gửi thông báo thụ lý vụ án đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình; bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các Điều 56; 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:

- Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Trương Thị Hồng T, cho chị T ly hôn với anh Nguyễn Thanh V.

- Về con chung: Giao con chung Nguyễn Phương Tuệ N, sinh ngày 27/6/2017 cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị T xác định không có nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

[1.1] Chị Trương Thị Hồng T có đơn khởi kiện xin ly hôn và nuôi con với bị đơn anh Nguyễn Thanh V nên HĐXX xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”. Bị đơn anh Nguyễn Thanh V đăng ký hộ khẩu thường trú và hiện đang cư trú tại thôn 4, xã Q, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk.

[1. 2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho bị đơn anh Nguyễn Thanh V, nhưng anh V không đến Tòa án làm việc nên Tòa án không tiến hành lấy lời khai và hòa giải được. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định pháp luật.

Anh V đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án vẫn tiến hành xét xử là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về các yêu cầu của đương sự:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Hồng T và anh Nguyễn Thanh V đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện K, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 27/9/2016, là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Vợ chồng anh chị sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm nên thường xảy ra cãi vã, tình cảm ngày càng phai nhạt, nay chị T yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho chị được ly hôn với anh V.

Qua kết quả xác minh tại chính quyền địa phương cho thấy, quá trình chung sống giữa anh V, chị T thường xảy ra mâu thuẫn cãi vã, nguyên nhân do bất đồng quan điểm. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay.

Hội đồng xét xử xét thấy, thực tế trong quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh V đã xảy ra mâu thuẫn ở mức độ trầm trọng và kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Từ những nhận định trên, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T, cho chị T được ly hôn anh V là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Chị T và anh V có 01 con chung là Nguyễn Phương Tuệ N, sinh ngày 27/6/2017. Hiện con chung đang ở với chị T. Khi ly hôn chị T có nguyện vọng muốn được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Xét về quyền lợi mọi mặt của con, cũng như nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chưa thành niên, xét thấy chị T có thu nhập ổn định. Căn cứ vào Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao con chung cho chị T được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, mà không ai được cản trở.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn xác định không có tài sản chung và nợ chung nên không đề cập giải quyết.

[3] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về án phí: Nguyên đơn chị Trương Thị Hồng T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 56; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trương Thị Hồng T.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trương Thị Hồng T và anh Nguyễn Thanh V.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Phương Tuệ N, sinh ngày 27/6/2017 cho chị Trương Thị Hồng T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị T không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

Anh V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trương Thị Hồng T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, biên lai số 14726 ngày 14 tháng 10 năm 2020.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 23/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông A Na - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về