Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn giữa bà N với ông B

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH Đ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ LY HÔN GIỮA BÀ N VỚI ÔNG B

Trong ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại Hội trường xét xử của Toà án nhân dân huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 477/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2021/QĐXX ST-HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Nguyễn Thị N, sinh năm 1970 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp Cả Nhỏ, xã Định T, huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tre.

* Bị đơn: Trần Văn B, sinh năm 1966 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Cả Nhỏ, xã Định T, huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tre.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Hồ Minh H, sinh năm 1964 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Bến Cát, xã Định T, huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tre.

2/ Phạm Văn L, sinh năm 1973 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Bình Phú, xã Thạnh T1, huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 15 tháng 10 năm 2020, bản tự khai ngày 16/11/2020, những lời khai tiếp theo, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn Nguyễn Thị N trình bày:

Bà Nguyễn Thị N và ông Trần Văn B tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1988, hai bên đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Định T, huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tre và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 17/01/1989. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống có hạnh phúc. Đến tháng 05/2020, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình hai bên không hòa hợp, vợ chồng thường hay cự cãi nhau, ông Trần Văn B thường hay chửi mắng và có hành vi bạo lực đối với bà N. Bà N cố gắng hàn gắn, thuyết phục ông B để xây dựng lại hạnh phúc gia đình nhưng không có kết quả, từ đó dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và vợ chồng sống ly thân từ tháng 10 năm 2020 cho đến nay. Hiện tại, bà N không còn tình cảm vợ chồng với ông B nữa.

Tại tòa, bà Nguyễn Thị N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết những vấn đề sau đây:

Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết cho ly hôn với ông Trần Văn B.

Về con chung: Có 03 con chung tên là Trần Thị Hoa T2, sinh ngày 04/10/1989; Trần H1, sinh ngày 03/12/1992; Trần Thị Như M, sinh ngày 08/4/2001. Các con chung đều đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: không có.

Trong suốt quá trình tố tụng, Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập hợp lệ nhưng ông Trần Văn B bất hợp tác với Tòa án, từ chối ký nhận các văn bản tố tụng và các tài liệu, chứng cứ có liên quan. Tại biên bản lấy lời khai ngày 03/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tre đối với ông B thì ông B trình bày: Vợ chồng bà N và ông B không có mâu thuẫn gì lớn, ông còn thương vợ, thương con và muốn gia đình đoàn tụ, ông B yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Bình Đ giải quyết vắng mặt trong các lần công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử vụ án. Về tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Trong thời kỳ hôn nhân, ông B và bà N có thiếu ông Hồ Minh H 75.000.000 đồng (Bảy mươi lăm triệu đồng) và ông Phạm Văn L 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), ông B tự nguyện trả toàn bộ số nợ trên một mình không yêu cầu bà N liên đới trả nợ với ông.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 09 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tre đối với ông Hồ Minh H, ông Phạm Văn L thì ông H và ông L trình bày: Không yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Bình Đ giải quyết phần nợ mà bên vợ chồng ông B và bà N còn thiếu trong vụ án này, yêu cầu để hai bên tự thỏa thuận trả nợ sau, đồng thời có yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt trong các lần công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử vụ án.

* Ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật và quan điểm giải quyết vụ án:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự:

Thẩm phán thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến khi ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án. Các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự vắng mặt đều có yêu cầu giải quyết vắng mặt đúng theo quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Điều 147, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị N đối với ông Trần Văn B.

Về con chung: Có 03 con chung tên là Trần Thị Hoa T2, sinh ngày 04/10/1989; Trần H1, sinh ngày 03/12/1992; Trần Thị Như M, sinh ngày 08/4/2001. Các con chung đều đã trưởng thành, hai bên đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

Về tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét đến.

Về nợ chung: Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng bà N và ông B có thiếu nợ ông Hồ Minh H 75.000.000 đồng (Bảy mươi lăm triệu đồng) và ông Phạm Văn L 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), tuy nhiên ông H và ông L không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Trần Văn B, ông Hồ Minh H và ông Phạm Văn L có yêu cầu xét xử vắng mặt, do đó Tòa án xét xử vắng mặt ông B, ông H và ông L là phù hợp với Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xét yêu cầu của nguyên đơn và đề nghị của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Bà Nguyễn Thị N và ông Trần Văn B tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1988, hai bên đăng ký kết hôn theo luật định nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Thời gian đầu, vợ chồng bà N, ông B sống có hạnh phúc. Đến tháng 5/2020, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình hai bên không hòa hợp, vợ chồng thường hay cự cãi nhau. Ông Trần Văn B thường hay chửi mắng và có hành vi bạo lực đối với bà N. Vợ chồng bà N và ông B đã sống ly thân từ tháng 10/2020 cho đến nay. Mặc dù ông B cho rằng còn thương bà N và muốn gia đình đoàn tụ. Tuy nhiên, trong suốt quá trình tố tụng, Tòa án triệu tập ông B để tiến hành hòa giải vụ án, ông B không đến, từ chối ký nhận các văn bản tố tụng và tài liệu, chứng cứ của vụ án. Điều đó chứng tỏ ông B không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng với bà N. Mặt khác đến ngày mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án, ông B cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì chứng minh vợ chồng bà N và ông B có khả năng đoàn tụ. Kể từ khi ly thân đến nay, vợ chồng bà N, ông B không quan tâm gì đến nhau. Điều đó chứng tỏ quan hệ hôn nhân giữa bà N và ông B đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, do đó yêu cầu ly hôn của bà N là có cơ sở phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[3] Về con chung: Có 03 con chung tên là Trần Thị Hoa T2, sinh ngày 04/10/1989; Trần H1, sinh ngày 03/12/1992; Trần Thị Như M, sinh ngày 08/4/2001. Các con chung đều đã trưởng thành, hai bên đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét đến.

[5] Về nợ chung: Ông Hồ Minh H và ông Phạm Văn L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

[6] Đối với phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[7] Về án phí: Căn cứ theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 51, 56, 57 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị N đối với ông Trần Văn B.

Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị N với ông Trần Văn B.

2. Về nuôi con chung: Có 03 con chung tên là Trần Thị Hoa T2, sinh ngày 04/10/1989; Trần H1, sinh ngày 03/12/1992; Trần Thị Như M, sinh ngày 08/4/2001. Các con chung đều đã trưởng thành, hai bên đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

3. Về tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét đến.

4. Về nợ chung: Ông Hồ Minh H và ông Phạm Văn L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

5. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Bà Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà N đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002067 ngày 26/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Đ. Vậy, bà N đã nộp xong án phí.

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

325
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn giữa bà N với ông B

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về