Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 12/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 184/2020/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về việc “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/12/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 115/2020/QĐ-ST ngày 25/12/2020 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Q, sinh năm 1991.

HKTT: Thôn T, xã Cộng Hòa, huyện K, tỉnh Hải Dương. Hiện ở: Đội, xã L, huyện V, tỉnh Yên Bái.

Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2.Bị đơn: Anh Nguyễn Đức Th, sinh năm 1985.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn Th, xã C, huyện K, tỉnh Hải Dương. Hiện đang lao động tại: Angienia. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai của nguyên đơn chị Phạm Thị Q trình bày: Chị và anh Th được tự do, tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện K ngày 31/01/2012. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một năm thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, không tìm thấy tiếng nói chung, dẫn đến vợ chồng thường xảy ra xô xát. Hai bên không chịu được áp lực về tinh thần nên ngày 01/5/2014 anh Th đi Angienia lao động. Thời gian đầu vợ chồng liên lạc với nhau, nhưng sau đó anh Th không quan tâm, liên lạc với chị. Hiện tại chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở tại đội , xã L, huyện V, tỉnh Yên Bái để sinh sống. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Th theo quy định của pháp luật.

Về con chung : Chị và anh Th có một con chung là Nguyễn Nhật L, sinh ngày 15/10/2012. Hiện đang ở với bà nội, ban đầu chị đồng ý để anh Th chăm sóc nuôi dưỡng. Nhưng nay chị nhận thấy anh Th không có mặt tại Việt Nam, con chung thì còn nhỏ nên chị có nguyện vọng được nuôi con, tự nguyện không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung, nợ chung : Không có, nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại lời khai của bà Nguyễn Thị H là mẹ đẻ anh Th xác định: Anh Th hiện đang lao động tại Angienia, địa chỉ cụ thể thì bà không biết, nhưng anh Th thường xuyên liên lạc qua điện thoại với gia đình. Bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh Th biết. Việc chị Q có đơn xin ly hôn anh Th bà có biết, nguyên nhân do anh Th mải chơi, không tu trí làm ăn vun vén cho gia đình dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn. Sau khi nhận các văn bản tố tụng, bà đã thông báo cho anh Th biết. Anh Th có quan điểm xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. Về con chung anh Thái đồng ý để chị Q chăm sóc nuôi dưỡng con chung. Về tài sản chung không có, nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Do điều kiện không về Việt Nam để giải quyết ly hôn, nên anh Th đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Tòa án xác minh tại xã C, huyện K thể hiện: Chị Quỳnh, anh Th có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện K, tỉnh Hải Dương. Hiện tại anh Th ở nước ngoài, không có mặt tại địa phương, chị Q hiện đang sinh sống ở Yên Bái. Mâu thuẫn của anh Th, chị Q địa phương không nắm bắt cụ thể, nhưng theo thông tin địa phương nắm bắt được thì được biết anh Th là người chơi bời, không tu trí làm ăn. Nay chị Q có đơn ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ vào pháp luật để giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (viết tắt BLTTDS), bị đơn thực hiện chưa đúng quy định của BLTTDS. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Q được ly hôn anh Th. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Nhật L, sinh ngày 15/10/2012 cho chị Q chăm sóc, nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Q không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng cho con. Chị Q phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Phạm Thị Q khởi kiện bị đơn anh Nguyễn Đức Th có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại thôn Th, xã C, huyện K, tỉnh Hải Dương, hiện đang lao động tại Angienia nhưng không rõ địa chỉ cụ thể. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Q không cung cấp được địa chỉ của anh Th ở nước ngoài. Anh Th thường xuyên liên lạc điện thoại với mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị H. Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã nhiều lần đề nghị người thân của anh Th cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Sau khi nhận các văn bản tố tụng, gia đình đã thông báo cho anh Th biết việc Tòa án giải quyết ly hôn giữa chị Q và anh Th. Tòa án đã niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai anh Th vẫn vắng mặt. Chị Q có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227 và khoản 1 Điều 228 BLTTDS, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Q và anh Nguyễn Đức Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C, huyện K, tỉnh Hải Dương ngày 31/01/2012 nên hôn của anh chị là hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng một năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Th mải chơi, không tu trí làm ăn dẫn đến vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, thường xuyên xảy ra xô xát. Tháng 5/2014 anh Th đi nước ngoài, vợ chồng ít liên lạc, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay.

Nay chị Q xác định tình cảm vợ chồng không còn có đơn xin ly hôn. Thông qua gia đình anh Th cũng có quan điểm đồng ý ly hôn. Mâu thuẫn giữa chị Q, anh Th được chứng minh thông qua lời khai của đại diện gia đình anh Thái, quan điểm của địa phương và của các đương sự. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Q và anh Th đã trầm trọng, vợ chồng sống ly thân đã lâu, không ai quan tâm tới ai, cuộc sống chung vợ chồng không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Q ly hôn anh Thái là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị Phạm Thị Q và anh Nguyễn Đức Th có một con chung là Nguyễn Nhật L, sinh ngày 15/10/2012. Hiện đang ở với bà nội. Xét thực tế anh Th đang ở nước ngoài, không có mặt tại Việt Nam nên không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con, cháu L có nguyện vọng được ở với mẹ nên để đảm bảo quyền lợi và nguyện vọng của các bên. HĐXX chấp nhận giao con chung cho chị Q nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Q không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng cho con. Nếu như có căn cứ cho rằng chị Q nuôi con không đảm bảo, ảnh hưởng đến quyền lợi của con chung thì anh Th có quyền làm đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền để giải quyết yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Q, anh Th không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết. Các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết phân chia tài sản chung sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật (nếu có).

[3] Về án phí: Nguyên đơn chị Phạm Thị Q phải chịu án phí dân sự (về hôn nhân gia đình) sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Điểm a, Khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82 Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a, Khoản 5, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị Q ly hôn anh Nguyễn Đức Th.

2.Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Nguyễn Nhật L, sinh ngày 15/10/2012 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Q không yêu cầu anh Nguyễn Đức Th phải cấp dưỡng cho con.

Không ai được cản trở anh Nguyễn Đức Th thực hiện quyền, nghĩa vụ trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị Q phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (Hôn nhân và gia đình). Đối trừ số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí, theo biên lai thu số AA/2018/0002825 ngày 15/10/2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị Q được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Anh Nguyễn Đức Th được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 12/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về