Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 07/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Không tham gia phiên Ngày 07 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ xét xử công khai sơ thẩm vụ án Hôn nhân & Gia đình sơ thẩm thụ lý số: 440/ 2020/ TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2020, về việc “ Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 154/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 04 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 121/2020/QĐST-HNGĐ, ngày 21 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Minh T, sinh năm 1989 ( Vắng mặt). Địa chỉ: Số 24/5A, đường 9, khu phố 4, phường B, Quận Đ, TP. M

Bị đơn: Anh Trần Quang V, sinh năm 1988 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Số 227/10 ấp L, xã H, huyện H, tỉnh L

NỘI DUNG VỤ ÁN

-Theo đơn khởi kiện ngày 27 tháng 9 năm 2020 và trong quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn chị Phạm Thị Minh T trình bày:

-Nguyên đơn chị Phạm Thị Minh T trình bày: Vào năm 2015 qua quen biết chị và anh Trần Quang V tự nguyện tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán, đến năm 2016 đăng ký kết hôn trễ hạn, được Ủy ban nhân dân phường B, Quận Đ, thành phố M cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 08/6/2016.

Sau khi cưới vợ chồng sống ở nhà trọ đến khi chị mang thai thì vợ chồng về nhà cha mẹ ruột của chị sống, lúc đầu anh V về ở được vài ngày rồi bỏ đi, đến khi chị sinh con có về ở được gần 02 tháng thì anh V bỏ về quê ở cho đến nay, khi đi anh V không có nói đi đâu nhưng chị biết là anh V quen biết nhiều bạn bè ăn chơi bên ngoài, từ tháng 8 năm 2015 đến nay anh V không có về thăm con và chỉ có liên lạc gặp chị 01 lần bên ngoài sau đó thì không có liên lạc nữa, chị có về nhà cha mẹ ruột của anh V để hỏi thăm thì gia đình nói anh V đi làm, lâu lâu có về thăm gia đình. Tình cảm vợ chồng không còn nữa, thời gian ly thân đã lâu, chị yêu cầu được ly hôn với anh V.

Về con chung: Có 01 con chung tên Trần Nguyên L, sinh ngày 06/6/2015, hiện đang sống với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

-Bị đơn là anh Trần Quang V vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án cũng không có bản khai ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là anh Trần Quang V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ 02 không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Chị T có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt vì bận công việc không thể tham dự phiên tòa, các yêu cầu của chị đã được trình bày trong các buổi hòa giải. Căn cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị T, anh V.

[2]. Xét về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh V tiến đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện được Ủy ban nhân dân phường B, Quận Đ, thành phố M cấp giấy chứng nhận kết số 56 vào ngày 08/6/2016. Do đó hôn nhân của chị T và anh V là hôn nhân hợp pháp.

[3]. Xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: Chị T trình bày: Sau khi cưới anh chị chung sống với nhau không được bao lâu thì anh V bỏ đi cho đến nay, sau khi chị sinh con anh cũng không quan tâm, một mình chị nuôi dưỡng con cái. Cho thấy anh V không có tình cảm với chị T, thời gian dài anh chị sống ly thân, không còn ai quan tâm đến cuộc sống của nhau, chị T cho rằng không còn tình cảm với anh V, mục đích hôn nhân không đạt được. Tòa án đã thông báo cho anh V biết về yêu cầu ly hôn của chị T nhưng anh V cũng không có ý kiến yêu cầu được đoàn tụ với chị T. Cho thấy anh V cũng đồng ý với yêu cầu ly hôn của chị T. Xét thấy vợ chồng phải có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, quan tâm chăm sóc, giúp đỡ nhau, chung sống cùng nhau, tại dựng nên gia đình hạnh phúc, nhưng chị T và anh V không đạt được điều này. Do đó chị T yêu cầu ly hôn với anh V là có căn cứ.

[4]. Về con chung: Cháu Trần Nguyên L, sinh ngày 06/6/2015, hiện do chị T nuôi dưỡng. Chị T yêu cầu được nuôi con, anh V không có ý kiến. Do đó nên giao cháu L cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng. Anh V có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

[5]. Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu giải quyết.

[6]. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết.

[7]. Về nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết.

[8]. Về án phí: Buộc chị T phải nộp tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, 227, 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 27 của Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Phạm Thị Minh T được ly hôn với anh Trần Quang V.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Nguyên L, sinh ngày 06/6/2015, cho chị Phạm Thị Minh T tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Trần Quang V có quyền tới lui thăm nom và chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

6. Về án phí: Buộc chị Phạm Thị Minh T nộp 300.000 đồng ( Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chị T đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng theo biên lai số 0006129 ngày 14 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Hồ nên được khấu trừ.

7. Quyền kháng cáo: Án xử có mặt nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 07/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về