Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 05/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 05 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 651/2020/TLST-HNGĐ ngày 13/10/2020 về “Tranh chấp Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 203A/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24/11/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 140/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14/12/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Trần Thanh Đ, sinh năm 1986 Địa chỉ: ấp TH, xã ST, huyện CT, tỉnh TG

2. Bị đơn: Trần Thị N, sinh năm 1989 Địa chỉ: ấp TH, xã ST, huyện CT, tỉnh TG (Anh Đ có mặt, chị N vắng mặt tại phiên toà)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn Trần Thanh Đ trình bày:

Anh Đ và chị N chung sống vợ chồng vào năm 2011,có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Song Thuận, Châu Thành, Tiền Giang. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm đồng thời do chị N bỏ nhà đi không về, có quan hệ tình cảm với người khác, không chăm lo cho gia đình. Do mâu thuẫn kéo dài mặc dù cố gắng hàn gắn nhiều lần nhưng không có kết quả, tình cảm vợ chồng không còn đã ly thân từ năm 2017 đến nay nên Anh Đ xin Tòa án giải quyết ly hôn với chị N. Về con chung có 01 con chung tên Trần Ngọc Thanh N1 sinh năm 2011 hiện sống với Anh Đ, Anh Đ yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Về nợ chung không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

* Bị đơn chị Trần Thị N vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cũng như tại phiên tòa, không có ý kiến yêu cầu trình bày đối với yêu cầu ly hôn và nuôi con chung của Anh Đ

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra cũng như tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Anh Đ và chị N quen biết sau đó tự nguyện chung sống vợ chồng vào năm 2011,có đăng ký kết hôn theo quy định. Anh chị chung sống hạnh phúc đến 2017 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân theo Anh Đ trình bày là do bất đồng quan điểm đồng thời do chị N bỏ nhà đi không về, có quan hệ tình cảm với người khác, không chăm lo cho gia đình và anh chị đã ly thân từ năm 2017 đến nay. Do thấy không còn tình cảm nên Anh Đ làm đơn xin ly hôn với chị N. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị N và Anh Đ là hôn nhân hợp pháp. Nay Anh Đ xin ly hôn với chị N nên được xem xét giải quyết theo quy định Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình.

Bị đơn Trần Thị N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt chị N.

Xét yêu cầu xin ly hôn của Anh Đ:

Tại phiên tòa, Anh Đ yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị N lý do giữa Anh Đ và chị N phát sinh mâu thuẫn trầm trọng từ năm 2017, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, đồng thời do chị Ni bỏ nhà đi, không lo gia đình, đã ly thân từ năm 2017 đến nay,giữa hai vợ chồng không còn tình cảm, không có khả năng hàn gắn.

Xét thấy cuộc sống hôn nhân giữa Anh Đ và chị N đã có phát sinh mâu thuẫn từ năm 2017 và đã đến mức trầm trọng, hiện anh chị đã ly thân từ năm 2017. Chị N trong suốt quá trình giải quyết của Tòa án từ giai đoạn hòa giải cho đến khi xét xử đều vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu ly hôn và nuôi con chung của Anh Đ chứng tỏ chị N không còn tình cảm và không quan tâm đến Anh Đ, cũng không có ý kiến hay biện pháp gì để hàn gắn tình cảm với Anh Đ, do đó có cơ sở xác định mâu thuẫn giữa Anh Đ và chị N là trầm trọng, không có khả năng hàn gắn, nên xét thấy có cơ sở chấp nhận yêu cầu ly hôn của Anh Đ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Anh Đ và chị N có 01 con chung tên Trần Ngọc Thanh N1 sinh ngày 06/02/2011 Anh Đ xin trực tiếp nuôi dưỡng cháu N1 sau ly hôn và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy từ khi ly thân cho tới nay, cháu N1 sống với Anh Đ, được Anh Đ chăm sóc chu đáo, Anh Đ có nghề nghiệp và thu nhập ổn định do đó cần giao cháu N1 cho Anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng là đảm bảo điều kiện cho cháu N1 phát triển toàn diện về tinh thần và thể chất và không làm ảnh hưởng cuộc sống ổn định của cháu N1.

Về tài sản chung: Anh Đ xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết về tài sản chung.

Về nợ chung: Anh Đ xác định nợ chung không có, không yêu cầu Tỏa án xem xét giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí: Anh Đ phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu:

Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án,đề nghị áp dụng các Điều 53, 56,81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Anh Đ về việc xin ly hôn với chị N về con chung đề nghị giao con chung cho Anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng, chị N không cấp dưỡng nuôi con,về tài sản chung và nợ chung không đặt ra xem xét giải quyết do không yêu cầu, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân gia đình;

- Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Xử:

- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn Trần Thanh Đ: cho anh Trần Thanh Đ được ly hôn với chị Trần Thị N - Về con chung:

Giao cháu Trần Ngọc Thanh N1 sinh ngày 06/2/2011 cho anh Trần Thanh Đ trực tiếp nuôi dưỡng, chị Trần Thị N không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Anh Đ phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ với số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm Anh Đ đã nộp theo biên lai số 0003302 ngày 12/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành nên xem như Anh Đ đã nộp xong án phí.

Anh Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Chị N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 05/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về