Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung giữa chị D và anh Đ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 03/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG GIỮA CHỊ D VÀ ANH Đ

Ngày 03 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 279/2020/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 07/2021/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị D, sinh năm 1983

- Bị đơn: Anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1981 Cùng nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện P, tỉnh Thái Bình (Tại phiên tòa có mặt chị D, vắng mặt anh Đ)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 29/7/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Phạm Thị D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Phạm Văn Đ tự do, tự nguyện tìm hiểu dẫn đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện P, tỉnh Thái Bình vào ngày 18/6/2008. Quá trình chung sống đến năm 2010 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, anh Đ lại có biểu hiện không chung thủy. Mâu thuẫn căng thẳng vào 5/2020, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Đ không còn, chị xin ly hôn anh Đ.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Phạm Thị H sinh ngày 10/11/1999 và Phạm Thị M sinh ngày 03/6/2008, hiện đang ở với chị D. Ly hôn, con H đã trưởng thành không đặt ra trách nhiệm nuôi dưỡng, chị nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con Phạm Thị M, chị không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng cho con. Hiện tại, chị không có thai nghén gì.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Phạm Văn Đ vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

Kết quả xác minh với ông Phạm Văn T – bố đẻ anh Phạm Văn Đ và cơ sở Thôn N, xã T, huyện Quỳnh Phụ thấy: Chị Phạm Thị D và anh Phạm Văn Đ là vợ chồng, quá trình chung sống và nguyên nhân mâu thuẫn cụ thể của vợ chồng, gia đình và cơ sở thôn không biết, chỉ nghe nói anh Đ không chung thủy, có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, từ tháng 5/2020 vợ chồng ly thân. Nay chị D có đơn xin ly hôn anh Đ, gia đình và cơ sở thôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Chị D và anh Đ có 02 con chung là Phạm Thị Hsinh ngày 10/11/1999 và Phạm Thị Msinh ngày 03/6/2008, hiện đang ở với chị D. Nếu Tòa án giải quyết cho chị D và anh Đ ly hôn, về nuôi con và cấp dưỡng cho con đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung cơ sở thôn không biết rõ.

Hiện tại, anh Phạm Văn Đ vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn N, xã T, huyện P nhưng anh Đ đi làm tự do tại Hải Phòng còn địa chỉ cụ thể thì gia đình và cơ sở thôn không biết nhưng anh Đ thường xuyên liên hệ về gia đình, gia đình đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án và đã thông báo cho anh Đ biết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình về giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt nên Viện kiểm sát không có ý kiến về chấp hành pháp luật của bị đơn.

Về nội Đng: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: Về quan hệ hôn nhân: xử cho chị Phạm Thị D được ly hôn anh Phạm Văn Đ; Về con chung: chị D và anh Đ có 02 con chung Phạm Thị H sinh ngày 10/11/1999 và Phạm Thị M sinh ngày 03/6/2008. Ly hôn, con Hạnh đã trưởng thành không đặt ra trách nhiệm nuôi dưỡng, xử giao con chung Phạm Thị M cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, chị D không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng cho con, anh Đ được quyền thăm nom con chung; Về tài sản: không đặt ra giải quyết; Về án phí:

chị D phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Chị Phạm Thị D khởi kiện ly hôn, nuôi con chung với anh Phạm Văn Đ, do anh Đ là bị đơn cư trú tại Thôn N, xã T, huyện P, tỉnh Thái Bình nên TAND huyện P, thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do vì vậy Tòa án tiến hành xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị D và anh Phạm Văn Đ xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân xã T, huyện P, tỉnh Thái Bình cấp đăng ký kết hôn số 53 ngày 18/6/2008 là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc hòa thuận đến năm 2010 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp nhau, chị D nghi ngờ anh Đ không chung thủy. Nay chị D xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Đ không còn, chị xin ly hôn anh Đ. Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng anh Đ đều vắng mặt, không có thiện chí giải quyết vụ án, mặt khác trong suốt quá trình giải quyết vụ án đến nay vợ chồng vẫn tiếp tục ly thân, không ai quan tâm đến ai, điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị D và anh Đ đã trầm trọng, mục đích hôn không đạt được, hôn nhân của anh chị thực tế chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, vì vậy cần xử cho chị D được ly hôn anh Đ là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Phạm Thị D và anh Phạm Văn Đ có 02 con chung là Phạm Thị Hsinh ngày 10/11/1999 và Phạm Thị Msinh ngày 03/6/2008. Ly hôn, con Phạm Thị Hđã trưởng thành không đặt ra trách nhiệm nuôi dưỡng. Chị D nhận trách nhiệm nuôi dưỡng con Phạm Thị Diễm, chị D không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng cho con. Còn anh Đ không có quan điểm trình bày. Xét nguyện vọng nuôi con của chị D thấy, hiện tại con chung Phạm Thị M đang ở với chị D, cháu giới tính nữ cần sự quan tâm chăm sóc đặc biệt của mẹ, cháu cũng có nguyện vọng được ở với mẹ, nên cần giao con chung Phạm Thị Mcho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, chị D không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng cho con phù hợp tình hình thực tế của con chung, đáp ứng được nguyện vọng của con chung và phù hợp với Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: Chị Phạm Thị D không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn anh Phạm Văn Đ không có ý kiến trình bày nên về tài sản chung Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Chị Phạm Thị D phải chịu cả tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị D và anh Phạm Văn Đ có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 228 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án:

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị D được ly hôn anh Phạm Văn Đ.

2.Về nuôi con chung: Con chung Phạm Thị H sinh ngày 10/11/1999 đã trưởng thành nên không đặt ra trách nhiệm nuôi dưỡng. Xử giao con chung Phạm Thị Msinh ngày 03/6/2008 cho chị Phạm Thị D trực tiếp nuôi dưỡng. Chị D không yêu cầu anh Phạm Văn Đ cấp dưỡng cho con. Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3.Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xét.

4.Về án phí: Chị Phạm Thị D phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng chị D đã nộp theo biên lai thu số 0004569 ngày 13 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P được chuyển thành tiền án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Phạm Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung giữa chị D và anh Đ

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về