Bản án 07/2021/DS-ST ngày 19/03/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 07/2021/DS-ST NGÀY 19/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 

Ngày 19 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2019/TLST-DS ngày 02/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2021/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Dầu khí Toàn cầu Địa chỉ: Tòa nhà Capital Tower, số 109 Trần Hưng Đạo, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội Đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Huy T – Tổng giám đốc Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Duy L – Phó Giám đốc Chi nhánh Thăng Long Theo Văn bản ủy quyền số 108/2017/UQ-TGĐ ngày 10/11/2007 (có mặt)

Bị đơn: Nguyễn Thị V, sinh năm 1974 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Khu nhà ở phường Nguyễn Quyền, phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1, Bà Nguyễn Thị V1, sinh năm 1958

2, Anh Phạm Thanh Th, sinh năm 1988

3, Chị Phạm Thị Thu Tr, sinh năm 1988 Đều trú tại: thôn Hà Lâm 2, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

4, Chị Phạm Thị Kim Th1, sinh năm 1982

5, Chị Phạm Thị Th2, sinh năm 1985 Đều trú tại: thôn Châu Phong, xã Liên Hà, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

Người đại diện theo ủy quyền cho bà V1, anh Th, chị Tr, chị Th1, chị Th2: Ông Lê Ngọc Hà, sinh năm 1977 (có mặt) Nơi cư trú: Số 37 ngõ 115 Nguyễn Lương Bằng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

6, Anh Bùi Ngọc Q, sinh năm 1977 (có đơn xin vắng mặt) Nơi cư trú: Khu tập thể Z117, xã Đông Xuân, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội

7, Phòng Công chứng số 9 thành phố Hà Nội (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Khu hành chính huyện Mê Linh, xã Đại Thịnh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội Đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Hữu H – Trưởng phòng

8, Văn phòng công chứng trung tâm (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 6 thị trấn Đông Anh, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội Đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Văn C - Trưởng văn phòng

9, Chị Nguyễn Hương L, sinh năm 1981 (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ 19 phường Long Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22/5/2017 và lời khai tiếp theo, đại diện Ngân hàng TM TNHH MTV Dầu khí Toàn cầu trình bày: Ngày 17/6/2010, Ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn cầu – Chi nhánh Thăng Long – PGD Hoàng Quốc Việt (Nay là Ngân hàng TM TNHH MTV Dầu khí Toàn cầu – Chi nhánh Thăng Long – PGD Hoàng Quốc Việt) và bà Nguyễn Thị V đã ký kết Hợp đồng tín dụng số 0162/HĐTD-GPBTLG/10 với nội dung cụ thể như sau:

+ Tên khách hàng: Nguyễn Thị V.

+ Số tiền vay: 1.400.000.000đ (Bằng chữ: Một tỷ bốn trăm triệu đồng) + Thời hạn vay: 60 tháng.

+ Lãi suất: Áp dụng thả nổi, thay đổi 01 tháng/01 lần. Kỳ đầu tiên là 17%/năm.

+ Mục đích vay: Hoàn thanh toán tiền mua nhà và đất tại thôn Tăng Long, xã Việt Long, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

+ Phương thức vay: Trả góp.

+ Kế hoạch rút vốn: Một lần + Hình thức giải ngân: Chuyển khoản.

+ Kế hoạch trả nợ gốc: 01 tháng/01 lần vào ngày 15 hàng tháng. Số tiền trả nợ gốc mỗi kỳ là: 23.400.000đ Riêng số tiền trả nợ gốc kỳ cuối cùng là 19.400.000đ.

+ Trả nợ lãi: 01 tháng/ 01 lần vào ngày 15 hàng tháng.

Căn cứ vào hợp đồng tín dụng này, GPBank đã giải ngân cho bà Nguyễn Thị V số tiền là 1.400.000.000 đồng theo khế ước nhận nợ số 0162/HĐTD-GPBTLG/10 ngày 17/6/2010.

Đến kỳ trả nợ tháng 07/2011, bà Nguyễn Thị V bắt đầu phát sinh nợ quá hạn tại ngân hàng.

1. TÀI SẢN BẢO ĐẢM CHO KHOẢN VAY Tài sản bảo đảm cho khoản vay: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 91, tờ bản đồ số 11, địa chỉ: thôn Hà Lâm 2, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội theo “Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất” số BA 878825 do UBND huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội cấp ngày 28/4/2010, số vào sổ cấp GCN: 1267.QĐ- UBND.2010/CH.00021.2010 đứng tên bà Nguyễn Thị V.

Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng số: 01803.10; Quyển số 05 TP/CC-SCC/HĐGD được Văn phòng Công chứng Vạn Xuân – thành phố Hà Nội công chứng ngày 16/6/2010.

2. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT KHOẢN NỢ Trong thời gian bà Nguyễn Thị V bắt đầu phát sinh chậm trả từ kỳ tháng 07/2011, phí ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu khách hàng thực hiện nghĩa vụ trả nợ, đồng thời nhiều lần làm việc với bà Nguyễn Thị V nhưng khách hàng không thanh toán được hết gốc lãi chậm trả cho ngân hàng.

3. NỘI DUNG YÊU CẦU Căn cứ vào Bộ luật tố tụng dân sự, Ngân hàng TM TNHH MTV Dầu khí Toàn cầu đề nghị Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn thụ lý giải quyết vụ việc, buộc bà Nguyễn Thị V thanh toán cho GPBank tổng số tiền cả gốc và lãi tạm tính đến ngày 30/6/2020 như sau:

Khế ước nhận nợ số 0162/HĐTD-GPBTLG/10 ngày 17/6/2010

ĐVT: đồng

Nợ gốc

1.062.350.581

Lãi trong hạn chậm trả

391.375.331

Lãi quá hạn

2.861.785.176

Tổng

4.315.511.088

Tổng số tiền bà Nguyễn Thị V phải thanh toán cho ngân hàng tính đến ngày 18/3/2021 là 4.315.511.088 đồng.

Tiếp tục tính lãi khoản nợ đến ngày kết thúc vụ án.

Trong trường hợp bà Nguyễn Thị V không trả nợ, trả nợ không đầy đủ, đề nghị Tòa án cho xử lý tài sản bảo đảm để GPBank thu hồi nợ.

Ngân hàng đã cung cấp toàn bộ hồ sơ có liên quan đến khoản vay và đã nộp tạm ứng án phí theo quy định của Nhà nước.

Bị đơn là bà Nguyễn Thị V vắng mặt tại phiên tòa, nhưng quá trình giải quyết vụ án, bà có lời khai: Năm 2010, bà có ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn cầu để vay số tiền 1.400.000.000đ, mục đích vay mua nhà, thời hạn vay 60 tháng, lãi suất 17%/năm và thả nổi. Tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 91, tờ bản đồ số 11, địa chỉ: thôn Hà Lâm 2, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội chủ sử dụng mang tên bà. Quá trình thực hiện hợp đồng bà mới trả cho ngân hàng được hơn 300.000.000đ tiền gốc, do làm ăn khó khăn nên bà không trả nợ được tiếp. Nay ngân hàng khởi kiện bà đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ngân hàng. Về yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bà không đồng ý.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Đại diện theo ủy quyền của bà V1, anh Th, chị Tr, chị Th1, chị Th2 là ông Lê Ngọc Hà có ý kiến: Ông không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TM TNHH MTV Dầu khí Toàn cầu về việc phát mại tài sản thế chấp, ông đề nghị Tòa án giải quyết tuyên hợp đồng ủy quyền giữa gia đình bà V1 với anh Q và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng dất giữa anh Q, bà V là vô hiệu; Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Nguyễn Thị V.

Đại diện theo pháp luật của Phòng công chứng số 9, ông Phạm Hữu H – Trưởng phòng có ý kiến: Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất giữa hộ bà V1 và anh Bùi Ngọc Q được Phòng công chứng số 9 chứng nhận theo đúng quy định pháp luật. Tại thời điểm công chứng các bên tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật, việc lập hợp đồng ủy quyền giữa hộ bà Nguyễn Thị V1 và anh Bùi Ngọc Q là không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội và các bên tham gia giao dịch là hoàn toàn tự nguyện. Ông xin vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng.

Đại diện theo pháp luật của Văn phòng công chứng trung tâm, ông Ngô Văn C - Trưởng văn phòng có ý kiến: Văn phòng công chứng trung tâm có chứng nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 1901/2010/HĐCN ngày 14/4/2010 đối với thửa đất tại thôn Hà Lâm 2, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội giữa hộ gia đình bà Nguyễn Thị V1 đã ủy quyền cho anh Bùi Ngọc Q và bà Nguyễn Thị V. Hồ sơ công chứng đầy đủ, đúng quy định của Luật Công chứng. Ông xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Anh Bùi Ngọc Q có ý kiến: Năm 2010, anh có ký hợp đồng ủy quyền với hộ gia đình bà V1 tại Phòng công chứng số 9, thành phố Hà Nội, sau đó anh ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất mà hộ gia đình bà V1 đã ủy quyền cho anh sang cho bà Nguyễn Thị V. Bà V đã thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn của Ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn cầu và vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Nay ngân hàng khởi kiện, anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Đối với yêu cầu độc lập của gia đình bà V1 về việc tuyên hợp đồng ủy quyền và hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu, anh không đồng ý. Đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 18/CNQSDĐ/2010 ngày 11/01/2010 lập tại Phòng công chứng số 5, do anh không quen biết và cũng không ký chuyển nhượng cho chị Nguyễn Hương L, không nhận bất cứ khoản tiền nào của chị Liễu và không ký bàn giao quyền sử dụng đất tại thôn Hà Lâm 2, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội cho chị Liễu. Tuy nhiên, anh xác định chữ ký, chữ viết, dấu vân tay trong Hợp đồng chuyển nhượng này đúng là của anh. Anh và chị Liễu không thực hiện việc hủy hợp đồng chuyển nhượng này.

Chị Nguyễn Hương L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án không lấy được lời khai của chị.

Đại diện Viện kiếm sát nhân dân huyện Sóc Sơn kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa hôm nay phát biểu ý kiến:

Cần xác minh một số nội dung của vụ án mà Tòa chưa xác minh nên không phát biểu quan điểm về nôi dung vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng: Ngày 17/6/2010, Ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn cầu – Chi nhánh Thăng Long – PGD Hoàng Quốc Việt (Nay là Ngân hàng TM TNHH MTV Dầu khí Toàn cầu – Chi nhánh Thăng Long – PGD Hoàng Quốc Việt) và bà Nguyễn Thị V đã ký kết Hợp đồng tín dụng số 0162/HĐTD-GPBTLG/10; số tiền vay: 1.400.000.000 đồng; thời hạn vay 60 tháng; Lãi suất: Áp dụng thả nổi, thay đổi 01 tháng/01 lần. Kỳ đầu tiên là 17%/năm; Mục đích vay: Hoàn thanh toán tiền mua nhà và đất tại thôn Tăng Long, xã Việt Long, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

Căn cứ vào hợp đồng tín dụng này, GPBank đã giải ngân cho bà Nguyễn Thị V số tiền là 1.400.000.000đ theo Khế ước nhận nợ số 0162/HĐTD-GPBTLG/10 ngày 17/6/2010. Đến kỳ trả nợ tháng 7/2011 bà V bắt đầu phát sinh nợ quá hạn tại ngân hàng. Đây là hợp đồng tín dụng có kỳ hạn, có lãi. Quá trình thực hiện hợp đồng, bà V đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nên ngân hàng đã khởi kiện. Vì vậy, căn cứ vào khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án thụ lý vụ kiện là đúng quy định pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Q, bà V, đại diện Phòng công chứng số 9, đại diện Văn phòng công chứng trung tâm có đơn xin vắng mặt. Vì vậy, căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xử vắng mặt các đương sự trên tại phiên tòa hôm nay là đúng quy định của pháp luật.

Nội dung vụ kiện: Ngày 17/6/2010, Ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn cầu – Chi nhánh Thăng Long – PGD Hoàng Quốc Việt (Nay là Ngân hàng TM TNHH MTV Dầu khí Toàn cầu – Chi nhánh Thăng Long – PGD Hoàng Quốc Việt) và bà Nguyễn Thị V đã ký kết Hợp đồng tín dụng số 0162/HĐTD-GPBTLG/10; số tiền vay: 1.400.000.000 đồng; thời hạn vay 60 tháng; Lãi suất: Áp dụng thả nổi, thay đổi 01 tháng/01 lần. Kỳ đầu tiên là 17%/năm; Mục đích vay: Hoàn thanh toán tiền mua nhà và đất tại thôn Tăng Long, xã Việt Long, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; kế hoạch trả nợ gốc: 01 tháng/01 lần vào ngày 15 hàng tháng, số tiền trả nợ gốc mỗi kỳ là 23.400.000đ, riêng số tiền trả nợ gốc kỳ cuối cùng là 19.400.000đ, trả nợ lãi: 01 tháng/01 lần vào ngày 15 hàng tháng. Ngân hàng đã giải ngân cho bà Nguyễn Thị V số tiền là 1.400.000.000đ theo Khế ước nhận nợ số 0162/HĐTD-GPBTLG/10 ngày 17/6/2010.

Tài sản bảo đảm cho khoản vay: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 91, tờ bản đồ số 11, địa chỉ: thôn Hà Lâm 2, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội theo “Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất” số BA 878825 do UBND huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội cấp ngày 28/4/2010, số vào sổ cấp GCN: 1267.QĐ- UBND.2010/CH.00021.2010 đứng tên bà Nguyễn Thị V.

Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng số: 01803.10; Quyển số 05 TP/CC-SCC/HĐGD được Văn phòng Công chứng Vạn Xuân – thành phố Hà Nội công chứng ngày 16/6/2010.

Kể từ tháng 7/2011, bà V đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, phía ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu bà V thực hiện nghĩa vụ trả nợ, đồng thời nhiều lần làm việc với bà V nhưng bà V không thanh toán được hết gốc lãi chậm trả cho ngân hàng.

Nay ngân hàng đề nghị Tòa án giải quyết buộc bà V phải trả ngân hàng là: 4.315.511.088 đồng, tính đến hết ngày 18/3/2021.

Đề nghị tiếp tục tính lãi khoản nợ đến ngày kết thúc vụ án.

Trong trường hợp bà V không trả nợ, trả nợ không đầy đủ, đề nghị Tòa án cho xử lý tài sản bảo đảm để ngân hàng thu hồi nợ.

Hội đồng xét xử thấy: Trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và bà V có thỏa thuận thời hạn vay và lãi suất vay vốn được thực hiện Hợp đồng tín dụng và Khế ước nhận nợ, lãi suất áp dụng thả nổi. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 91, tờ bản đồ số 11, địa chỉ: thôn Hà Lâm 2, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Ngân hàng đã giải ngân cho bà V 1.400.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng bà V đã trả ngân hàng 101.461.109 đồng tiền lãi. Sau đó bà V đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ.

Theo quy định tại Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005 thì bên vay có nghĩa vụ trả nợ đầy đủ và đúng thời hạn thỏa thuận.

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì lãi suất ngân hàng và bà V đã thỏa thuận là sự tự nguyện.

Do vậy, bà V phải có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ nợ gốc, nợ lãi trong hạn, nợ lãi quá hạn cho ngân hàng.

Trong trường hợp bà V không trả được nợ thì ngân hàng có quyền yêu cầu phát mại tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp số 01803.10; Quyển số 05 TP/CC-SCC/HĐGD được Văn phòng công chứng Vạn Xuân, thành phố Hà Nội công chứng ngày 16/6/2010.

Đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng ủy quyền giữa gia đình bà V1 với anh Q và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Q và bà V là vô hiệu; hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất là vô hiệu; Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Nguyễn Thị V.

Quá trình giải quyết vụ án, gia đình bà V1 và người đại diện theo ủy quyền của gia đình bà V1 cho rằng: Hợp đồng ủy quyền được ký giữa gia đình bà V1 với anh Q là do bị anh Q, anh Q1 lừa đối, gia đình bà V1 không nhận được bất cứ khoản tiền vay vốn nào. Theo bản cam kết ngày 14/12/2009, anh Bùi Văn Q1 đã cam kết nhận ủy quyền để thế chấp và vay vốn ngân hàng, ngoài ra anh Q1 không được thực hiện bất cứ giao dịch nào khác. Do đó việc anh Q chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà V và bà V sang tên đem thế chấp ngân hàng là không đúng với ý chí của gia đình bà V1.

Hội đồng xét xử xét thấy: Ngoài lời khai của gia đình bà V1 và người đại diện theo ủy quyền của gia đình bà V1, gia đình bà V1 chỉ xuất trình được chứng cứ là Bản cam kết viết tay ngày 14/12/2009 của anh Bùi Văn Q1 với nội dung ủy quyền để thế chấp và vay vốn ngân hàng và Biên bản làm việc ngày 19/5/2010 giữa anh Q và bà V1 về việc không vay vốn nữa và lấy lại sổ đỏ. Tuy nhiên, ngày 15/12/2009, gia đình bà V1 gồm 5 thành viên đã ký Hợp đồng ủy quyền số 1553/HĐUQ/2009 tại Phòng công chứng số 9, thành phố Hà Nội. Trong đó tài sản ủy quyền là Quyền sử dụng đất tại thửa đất số 91, tờ bản đồ số 11, diện tích 416m2 tại thôn Hà Lâm 2, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Phạm vi ủy quyền hai bên thỏa thuận: Anh Q được giữ bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được tự mình chuyển nhượng, trao đổi, cho thuê, thế chấp, cho tặng quyền sử dụng đất đã ủy quyền. Anh Q đã thực hiện đúng phạm vi ủy quyền. Theo quy định tại Điều 17, Điều 20 Bộ luật dân sự thì người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì được quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó. Như vậy, việc anh Q1 có bản cam kết viết tay đối với bà V1 vào ngày 14/12/2009, nhưng ngày 15/12/2009 gia đình bà V1 lại ủy quyền và bàn giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Q tại Phòng công chứng số 9 thể hiện việc thay đổi ý chí của gia đình bà V1 là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 133 Bộ luật dân sự về việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba giao dịch ngay tình, thì khi bà V nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của anh Q, anh Q đã có giấy ủy quyền hợp pháp của gia đình bà V1, bà V sang tên và thế chấp vay vốn ngân hàng là hoàn toàn ngay tình và đúng quy định. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu độc lập của gia đình bà V1.

Đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 18/CNQSDĐ/2010 ngày 11/01/2010 được ký giữa anh Bùi Ngọc Q và chị Nguyễn Hương L tại Phòng công chứng số 5, thành phố Hà Nội. Anh Q xác nhận chữ ký, nhưng không nhận tiền của chị Liễn, chị Liệu đã được triệu tập đến làm việc nhưng chị không có mặt, nên tách quan hệ pháp luật liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng này và dành quyền khởi kiện cho anh Q, chị Liễu trong vụ án khác khi các bên có yêu cầu.

Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của ngân hàng được chấp nhận, nên căn cứ vào Điều 146, 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 26/12/2016 quy định về mức thu, nộp, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án, bà V phải chịu toàn bộ án phí. Hoàn trả lại ngân hàng số tiền tạm ứng án phí đã nộp. Gia đình bà V1 phải chịu án phí vì yêu cầu độc lập của bà không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 471, 474, 476 Bộ luật dân sự năm 2005;

Khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

Khoản 1 Điều 1 Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận;

Điều 147, 227, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 26/12/2016 quy định về mức thu, nộp, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1, Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TM TNHH MTV Dầu khí Toàn cầu đối với bà Nguyễn Thị V.

2, Buộc bà V phải trả Ngân hàng TM TNHH MTV Dầu khí Toàn cầu 4.315.511.088 đồng; trong đó: nợ gốc là 1.062.350.581 đồng; nợ lã: nợ lãi trong hạn là 391.375.311 đồng, lãi quá hạn là 2.861.785.176, tính đến hết ngày 18/3/2021;

Nếu bà V không thực hiện nghĩa vụ trả nợ toàn bộ số tiền trên, ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan thi hành án dân sự kê biên phát mại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo Hợp đồng thế chấp số 01803.10 Quyển số 05TP/CC- SCC/HĐGD ngày 16/6/2010;

3, Về án phí: Bà V phải nộp 112.315.511 đồng án phí dân sự sơ thẩm; Bà Nguyễn Thị V1, anh Phạm Thanh Th, chị Phạm Thu Tr, chị Phạm Thị Kim Th1, chị Phạm Thị Th2 phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 13.500.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn Biên lai số 0006306 ngày 08/11/2013, bà và các anh chị được hoàn lại số tiền 13.200.000 đồng; Ngân hàng TM TNHH MTV Dầu khí Toàn cầu được hoàn lại số tiền 28.398.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn Biên lai số 0006151 ngày 01/8/2013.

Kể từ ngày 19/3/2021 bà V còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất được điều chỉnh theo từng thời kỳ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Ngân hàng TM TNHH MTV Dầu khí Toàn cầu, bà Nguyễn Thị V1, anh Phạm Thanh Th, chị Phạm Thu Tr, chị Phạm Thị Kim Th1, chị Phạm Thị Th2 có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà V và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/DS-ST ngày 19/03/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng 

Số hiệu:07/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về