Bản án 07/2021/DS-ST ngày 06/01/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 07/2021/DS-ST NGÀY 06/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 290/2020/TLST-DS ngày 30 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp: “Hợp đồng vay tài sản” .

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 139/2020/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Nguyễn Văn R, sinh năm 1962.

Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện G, tỉnh T.

Địa chỉ liên lạc: Số A, đường N, phường B, thị xã G, tỉnh T.

Đại diện theo ủy quyền: Huỳnh Thị H, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Đường số C, khu phố D, phường E, quận F, thành phố H theo giấy ủy quyền ngày 09/11/2020.

*Bị đơn:

-Huỳnh Văn C, sinh năm 1960.

- Lưu Thị T, sinh năm 1960.

- Huỳnh Thị Ngọc L, sinh năm 1980.

Cùng địa chỉ: ấp T, xã B, huyện G, tỉnh T.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :

-Huỳnh Văn K, sinh năm 1985.

Địa chỉ: ấp T, xã B, huyện G, tỉnh T.

(Chị H có mặt, ông C, bà T, chị L có mặt, anh K vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải đại diện ủy quyền của nguyên đơn chị H trình bày:

Trước đây ông Nguyễn Văn R có cho gia đình ông Huỳnh Văn C, bà Lưu Thị T và con gái là Huỳnh Thị Ngọc L cùng địa chỉ ấp T, xã B, huyện G, tỉnh T vay tổng số tiền là 5.743.836.000 đồng, cụ thể các khoản vay như sau:

+ Căn cứ 01 giấy xác nhận vay tiền ngày 05/8/2020 và 02 giấy giao nhận tiền ngày 28/9/2016 và ngày 18/5/2017. Ông Huỳnh Văn C và bà Lưu Thị T vay của ông R tổng số tiền là 3.834.699.906 đồng, cụ thể qua hai lần vay như sau:

Lần 01: Vào ngày 28/9/2016, ông R đã cho ông C và bà T vay số tiền 91.775.000 đồng, khoản vay này hai bên thỏa thuận không tính lãi, ông C và bà T cam kết đến ngày 28/10/2016 ông C, bà T sẽ trả cho ông R đủ số tiền 91.775.000 đồng nhưng ông C, bà T đã không trả như cam kết.

Lần 02: Vào ngày 18/5/2017, ông C và bà T vay của ông R số tiền 3.742.924.906 đồng, lãi suất hai bên thỏa thuận là 0,75%/tháng. Khoản vay này có con ông C, bà T là anh Huỳnh Văn K bảo lãnh. Ông C, bà T cam kết chậm nhất đến ngày 11/8/2017 phải trả trước cho ông R số tiền là 200.000.000 đồng, chậm nhất đến ngày 11/9/2017 trả tiếp cho ông R số tiền 200.000.000 đồng, số tiền còn lại trả dần trong các tháng tiếp theo nhưng đến ngày 11/8/2017 ông C, bà T cũng không trả như cam kết. Đối với số tiền 3.742.924.906 đồng thì ông C, bà T cũng không trả bất kỳ khoản lãi nào.

Ngày 05/8/2020 ông Huỳnh Văn C, bà Lưu Thị T và anh Huỳnh Văn K có làm giấy xác nhận hiện tại vẫn còn đang nợ ông R tổng số tiền gốc qua hai lần vay là 3.834.699.906, đồng thời cam kết đến ngày 05/9/2020 phải trả cho ông R số tiền 200.000.000 đồng trên tổng số nợ là 3.834.699.906 đồng, nếu đến ngày 05/9/2020 không thực hiện như cam kết không trả cho ông R số tiền 200.000.000 đồng với bất kỳ lý do nào thì ông R được quyền khởi kiện ra Tòa án buộc phải trả tổng số nợ gốc là 3.834.699.906 đồng và khoản lãi 0,75%/tháng trên số tiền là 3.742.924.906 đồng, thời gian tính lãi từ ngày 11/8/2017 cho đến nay, khoản tiền lãi 1,0%/tháng trên số tiền 91.775.000 đồng. Thời gian tính lãi từ ngày 28/10/2016 cho đến nay.

nh đến nay thì ông C, bà T, anh K vẫn không thực hiện đúng cam kết trả nợ, không trả bất kỳ khoản tiền nào kể cả gốc và lãi của số tiền nợ 3.834.699.906 đồng.

+ Căn cứ giấy xác nhận vay tiền ngày 05/8/2020 và 01 giấy giao nhận tiền ngày 28/9/2016 thì ông R có cho bà Huỳnh Thị Ngọc L vay số tiền là 3.059.136.094 đồng. Tháng 06/2018 bà L có trả cho ông R được 1.150.000.000 đồng, số tiền còn lại bà L còn thiếu là 1.909.136.094 đồng, bà L cam kết trả vào ngày 28/7/2018 nhưng bà L vẫn chưa trả nên đến ngày 05/8/2020 bà L có làm giấy xác nhận còn nợ ông R số tiền là 1.909.136.094 đồng và cam kết đến ngày 05/9/2020 sẽ phải trả trước cho ông R số tiền 200.000.000 đồng, nếu đến ngày 05/9/2020 bà L không thực hiện vì bất kỳ lý do gì thì ông R có quyền khởi kiện bà L ra Tòa án buộc bà L phải trả đủ số tiền 1.909.136.094 đồng và phải chịu lãi suất 1%/tháng trên số nợ 1.909.136.094 đồng, thời gian tính lãi từ ngày 28/7/2018. Khoản vay này có ông C, bà T cùng bảo lãnh trả nợ cho chị L. Nhưng đến nay chị L vẫn không trả nợ như cam kết, không trả bất kỳ khoản tiền gốc và lãi nào của số tiền vay 1.909.136.094 đồng.

Nay ông R khởi kiện yêu cầu:

+ Ông Huỳnh Văn C, bà Lưu Thị T liên đới trả cho ông R số tiền là 91.775.000 đồng, không yêu cầu tính lãi số tiền này.

+ Ông Huỳnh Văn C, bà Lưu Thị T, anh Huỳnh Văn K liên đới trả cho ông R số tiền vốn 3.742.924.906 đồng và lãi tính từ ngày 12/8/2017 là ngày các bên thống nhất tính lãi đến tháng 10/2020 là 38 tháng với số tiền lãi là 1.066.733.598 đồng nay ý kiến cho giảm số tiền lãi nên số tiền lãi chỉ yêu cầu là 500.000.000 đồng.

+ Ông Huỳnh Văn C, bà Lưu Thị T, anh Huỳnh Văn K và chị Huỳnh Thị Ngọc L liên đới trả cho ông R số tiền vốn là 1.909.136.094 đồng và lãi suất 1%/tháng tính từ ngày hai bên thỏa thuận là ngày 29/7/2018 đến tháng 10/2020 là 27 tháng với số tiền là 515.466.745 đồng, nay đồng ý cho giảm lãi nên chỉ yêu cầu trả lãi là 300.000.000 đồng.

Yêu cầu trả vốn và lãi một lần khi án có hiệu lực pháp luật.

*Bị đơn Huỳnh Văn C, Lưu Thị T, Huỳnh Thị Ngọc Ltrình bày:

Ông C, bà T, chị L không có vay tiền của ông Nguyễn Văn R như ông R trình bày, mà số tiền ông R khởi kiện là số tiền nợ thức ăn nuôi tôm, do ông R là đại lý cấp 1, còn ông C và bà T là đại lý cấp 2. Quá trình mua bán thức ăn nuôi tôm thì ông C, bà T và chị L còn nợ tiền của ông Nguyễn Văn R cụ thể là:

Chị Huỳnh Thị Ngọc L còn nợ ông Nguyễn Văn R số tiền 1.909.136.094 đồng.

Ông Huỳnh Văn C và bà Lưu Thị T còn nợ ông Nguyễn Văn R số tiền 3.834.699.906 đồng.

Giấy giao nhận tiền ngày 28/9/2016 do ông R soạn thảo và chị L có ký tên xác nhận vào giấy giao nhận tiền này.

Giấy giao nhận tiền ngày 18/5/2017 do ông R soạn thảo và ông C có ký tên xác nhận vào giấy giao nhận tiền này.

Giấy xác nhận vay tiền ngày 05/8/2020 số tiền nợ 3.834.699.906 đồng do ông R soạn thảo và ông C, bà Tcó ký tên vào chỗ bên vay, anh K có ký tên vào chổ bên bảo lãnh.

Giấy xác nhận vay tiền ngày 05/8/2020 số tiền nợ 1.909.136.094 đồng do ông R soạn thảo và chị L có ký tên vào bên vay, còn ông C, bà T, anh K ký tên vào chổ bên bảo lãnh.

Ông C, bà T, chị L xác nhận chữ ký trong các giấy giao nhận tiền, giấy xác nhận vay tiền mà ông R nộp tại Tòa án là chữ ký của ông C, bà T, chị L và anh K. Tuy nhiên số tiền còn nợ này ông C, bà T, chị L xác nhận là tiền nợ ông R trong quá trình mua bán thức ăn nuôi tôm chứ không phải tiền vay.

Nay chị L thống nhất còn nợ ông R số tiền 1.909.136.094 đồng, chị L đồng ý cùng ông C, bà T liên đới trả số tiền 1.909.136.094 đồng cho ông R nhưng do hoàn cảnh khó khăn nên xin ông R cho trả dần mỗi năm 50.000.000 đồng, xin không trả lãi.

Ông C, bà T thống nhất nợ ông R số tiền 3.834.699.906 đồng, ông C và bà T đồng ý cùng chị L liên đới trả số tiền này cho ông R nhưng do hoàn cảnh khó khăn nên xin trả dần số tiền này mỗi năm là 150.000.000 đồng, trả cho đến khi nào trả hết số nợ này, xin không trả lãi.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Huỳnh Văn K trình bày:

Anh K thống nhất lời trình bày của ông Huỳnh Văn C, bà Lưu Thị T, chị Huỳnh Thị Ngọc L. Do điều kiện khó khăn nên không có khả năng trả nợ.

Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền nguyên đơn ông Nguyễn Văn R có chị H vẫn giữ nguyên lời trình bày và yêu cầu như nêu trên.

Bị đơn ông Huỳnh Văn C, bà Lưu Thị T, chị Huỳnh Thị Ngọc L thống nhất số tiền còn nợ nhưng xin trả dần do hoàn cảnh khó khăn, xin không trả lãi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra cũng như tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Huỳnh Văn K vắng mặt, có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt nên căn cứ vào Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với anh K.

[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Quan hệ tranh chấp giữa ông Nguyễn Văn R và ông Huỳnh Văn C, bà Lưu Thị T, chị Huỳnh Thị Ngọc L, anh Huỳnh Văn K là tranh chấp hợp đồng vay tài sản được xem xét giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 463 Bộ luật dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện G theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của ông R có chị H đại diện theo ủy quyền yêu cầu:

+ Ông Huỳnh Văn C, bà Lưu Thị T liên đới trả cho ông R số tiền là 91.775.000 đồng, không yêu cầu tính lãi số tiền này.

+ Ông Huỳnh Văn C, bà Lưu Thị T, anh Huỳnh Văn K liên đới trả cho ông R số tiền vốn 3.742.924.906 đồng và lãi tính từ ngày 12/8/2017 là ngày các bên thống nhất tính lãi đến tháng 10/2020 là 38 tháng với số tiền lãi là 1.066.733.598 đồng nay ý kiến cho giảm số tiền lãi nên số tiền lãi chỉ yêu cầu là 500.000.000 đồng.

+ Ông Huỳnh Văn C, bà Lưu Thị T, anh Huỳnh Văn K và bà Huỳnh Thị Ngọc liên đới trả cho ông R số tiền vốn là 1.909.136.094 đồng và lãi suất 1%/tháng tính từ ngày hai bên thỏa thuận là ngày 29/7/2018 đến tháng 10/2020 là 27 tháng với số tiền là 515.466.745 đồng, nay đồng ý cho giảm lãi nên chỉ yêu cầu trả lãi là 300.000.000 đồng.

Yêu cầu trả vốn và lãi một lần khi án có hiệu lực pháp luật.

Xét các yêu cầu trên của ông R có chị H đại diện trình bày là có cơ sở bởi lẽ giữa ông R và ông C, bà T, chị L, anh K có xác lập hợp đồng vay tài sản với chứng cứ là: “Các Giấy giao nhận tiền ngày 28/9/2016, các Giấy xác nhận vay tiền ngày 05/8/2020”, trong suốt quá trình giải quyết vụ kiện thì ông C, bà T, chị L và anh K đều thống nhất thừa nhận các khoản nợ này, tuy nhiên thì ông C, bà T, chị L và anh K cho rằng đây là tiền mua bán thức ăn chứ không phải tiền vay, đồng thời do hoàn cảnh khó khăn nên xin được trả dần và xin không trả lãi. Phía bị đơn và người liên quan không có chứng cứ gì chứng minh đây là tiền mua bán thức ăn và lời trình bày này không được phía nguyên đơn thừa nhận. Đồng thời, việc xin trả dần của ông C, bà T, chị L và anh K là kéo dài thời gian trả nợ, gây thiệt thòi quyền lợi cho ông R.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên ông C, bà T, chị L, anh K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 39; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 463, Điều 466, Điều 357 Bộ luật dân sự 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn R.

- Buộc ông Huỳnh Văn C, bà Lưu Thị T liên đới trả cho ông Nguyễn Văn R số tiền là 91.775.000 đồng (Chín mươi mốt triệu, bảy trăm bảy mươi lăm ngàn đồng).

- Buộc Ông Huỳnh Văn C, bà Lưu Thị T, anh Huỳnh Văn K liên đới trả cho ông Nguyễn Văn R tổng số tiền là 4.242.924.906 đồng (Bốn tỷ, hai trăm bốn mươi hai triệu, chín trăm hai mươi bốn ngàn, chín trăm lẻ sáu đồng).

- Buộc Ông Huỳnh Văn C, bà Lưu Thị T, anh Huỳnh Văn K và chị Huỳnh Thị Ngọc L liên đới trả cho ông Nguyễn Văn R số tiền là 2.209.136.094 đồng (Hai tỷ, hai trăm lẻ chín triệu, một trăm ba mươi sáu ngàn, không trăm chín mươi bốn đồng).

Thời gian trả khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của ông R cho đến khi thi hành án xong, ông C, bà T, chị L, anh K còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

* Về án phí dân sự sơ thẩm:

+ Ông Huỳnh Văn C, bà Lưu Thị T được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm do là người cao tuổi.

+ Anh Huỳnh Văn K phải chịu số tiền 56.460.000 đồng (Năm mươi sáu triệu, bốn trăm sáu mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

+ Chị Huỳnh Thị Ngọc L phải chịu số tiền 19.046.000 đồng (Mười chín triệu, không trăm bốn mươi sáu ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

+ Hoàn lại cho ông Nguyễn Văn R số tiền tạm ứng án phí 57.663.000 đồng (Năm mươi bảy triệu, sáu trăm sáu mươi ba ngàn đồng) theo biên lai thu số 0016936 ngày 30/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh T.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các đương sự có mặt có quyền kháng cáo Bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử theo trình tự phúc thẩm, đối với anh K vắng mặt thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày anh K nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/DS-ST ngày 06/01/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:07/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Tây - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về