Bản án 07/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 07/2020/HS-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 16 tháng 01 năm 2020 tại Tòa án nhân dân thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Tòa án nhân dân thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn T, sinh năm 1985 tại Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm V, xã H, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T2 và bà Vũ Thị B1; vợ Vũ Thị M và có 03 con lớn sinh năm 2012 nhỏ sinh năm 2018; Tiền án,tiền sự: không.

-Quá trình hoạt động bản thân: không Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại tại địa phương. (có mặt).

Người bị hại: Anh Lưu Công B, sinh năm 1977 (đã chết)

Trú tại: Thôn X, xã Q, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

Đại diện hợp pháp người bị hại:

-Bà Trần Thị S, sinh năm 1947 (có đơn xin vắng mặt)

Trú tại: Xã G, huyện G, tỉnh Nam Định

-Chị Tạ Thị Hương L, sinh năm 1981 (có mặt)

-Cháu Lưu Công Tuấn A, sinh năm 2008 (vắng mặt)

-Cháu Lưu Công Tuấn D, sinh năm 2013 (vắng mặt)

-Cháu Lưu Công H, sinh năm 2017 (vắng mặt)

Người giám hộ cho cháu A, cháu D, cháu H, chị Tạ Thị Hương L ( có mặt).

Cùng trú tại: Thôn X, xã Q, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

-Công ty TNHH N M

Địa chỉ: Thôn T, xã P, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Bùi Thị T1 – Giám đốc công ty (có đơn xin vắng mặt)

* Người làm chứng:

-Anh Dương Vũ L, sinh năm 1980 (vắng mặt)

-Anh Đương Viết T3, sinh năm 1981 (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 31/5/2019, Phạm Văn T (có giấy phép lái xe hạng FC có giá trị đến 09/11/2022) điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát: 17C-056.93 kéo theo Rơ moóc, biển kiểm soát(BKS): 17R-002.18 từ Xã G, huyện G, tỉnh Nam Định đến thành phố Phúc Yên để lấy ngói tại công ty gạch men Viglacera có trụ sở tại phường P, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Đến khoảng 01 giờ 15 phút ngày 01/6/2019, T điều khiển xe ô tô đầu kéo, kéo theo rơ moóc có Biển kiểm soát nêu trên đến cổng công ty Viglacera và tắt máy, đỗ ở làn đường hỗn hợp giành cho xe mô tô và xe thô sơ, giáp vỉa hè trên đường QL2A theo hướng từ thành phố Phúc Yên đi thành phố Hà Nội để đợi đến khi trời sáng vào công ty Viglacera lấy ngói. Sau khi đỗ xe, T tắt máy nằm ngủ trên cabin xe mà không thực hiện các biện pháp cảnh báo an toàn cho các phương tiện khác tham gia lưu thông trên đường biết.

Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 01/6/2019, sau khi tan ca làm việc tại công ty Honda, anh Lưu Công B sinh năm: 1977, trú tại thôn X, xã Q, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29Y7-006.45 đi theo đường QL2A hướng từ thành phố Phúc Yên đi thành phố Hà Nội để về nhà tại huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Khi đi gần đến cổng công ty gạch men Viglacera, anh B điều khiển xe mô tô đi nhanh trên làn đường trong cùng dành cho xe mô tô, xe máy và xe thô sơ. Lúc này, do xe ô tô của T đỗ ở ven đường không có tín hiệu cảnh báo cho người điều khiển phương tiện khác biết nên làm xe mô tô của anh B đã đâm vào thanh kim loại bảo vệ phía sau bên trái rơ-moóc biển kiểm soát 17R-002.18.

Hậu quả anh B bị ngã xuống đường bất tỉnh. Sau khi tai nạn xảy ra, anh T cùng một số người đi đường đã đưa anh B đến bệnh viện đa khoa khu vực Phúc Yên cấp cứu. Đến khoảng 04 giờ 30 phút ngày 01/6/2019 anh B đã tử vong, xe mô tô biển kiểm soát 29Y7-006.45 bị hư hỏng.

Cơ quan điều tra đã tổ chức khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, tạm giữ phương tiện, Giấy tờ có liên quan và khám phương tiện theo đúng quy định, kết quả khám phương tiện:

* Kết quả khám nghiệm xe mô tô, nhãn hiệu Honda Air Blade đeo Biển kiểm soát: 29Y7 -006.45: số khung: RLHJF4601DY338788; số máy: JF46F-4227027. Quá trình khám nghiệm phát hiện các dấu vết để lại như sau:

Ốp nhựa đầu xe phía trước người lái, cụm đồng hồ công tơ mét bị bung bật gãy vỡ gờ rời khỏi xe làm hở khung, tay lái còn bám dính lại nhờ hệ thống dây dẫn điện. Ốp nhựa phía trước đầu xe bị bung bật còn bám dính lại nhờ gương chiếu hậu bên trái, góc bên phải ốp nhựa này có vết trược xước, rách, vỡ nhựa chiều hướng từ trước về sau, từ trái sang phải, kích thước 10cm x 09cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 103cm, trên bề mặt có bám dính chất màu xanh. Gương chiếu hậu bên phải bị gãy vỡ rời khỏi xe chỉ còn lại phần cầu gương và chân gương, phần cầu gương xoay quanh chân gương. Gương chiếu hậu bên trái bị gãy vỡ rời khỏi xe còn lại phần cầu gương và chân gương, phần đầu cầu gương có vết trượt xước kim loại, kích thước 0,7cm x 0,8cm.

Khung tay lái bên phải điểm tiếp giáp với khung xe có vết cong vênh kim loại hướng từ phải sang trái. Ốp nhựa mặt nạ phía trước đầu xe bị bung bật các gờ hãm, còn bám dính lại nhờ ốc hãm phía trên bên phải.

Toàn bộ phần cánh yếm bên phải bị gãy vỡ trên diện 74cm x 43cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 20cm. Giá để chân người điều khiển bên phải cong vênh nhựa và kim loại, kích thước 25cm x 08cm. Sườn xe phía sau bên phải có vết trượt xước nhựa chiều hướng từ trước về sau, kích thước 16cm x 03cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 67cm. Đầu tay phanh bên trái có vết trượt xước kim loại, kích thước 0,8cm x 0,8cm. Mặt ngoài cánh yếm bên trái có nhiều vết trượt xước nhựa, không rõ chiều hướng trên diện 40cm x 42cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 49cm. Phần đầu chắn bùn bên trái bánh trước có vết vỡ mất nhựa, phần còn lại có kích thước 25cm x 48cm. Cạnh ngoài giá để chân người điều khiển bên trái có vết trước xước nhựa, kích thước 27cm x 1,5cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 24cm. Cạnh ngoài giá để chân người ngồi sau bên trái ở tư thế gập có vết mài mòn kim loại, kích thước 5,5cm x 02cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 40,5cm. Mặt ngoài ốp kim loại bả vệ lọc gió có vết trượt xước kim loại, kích thước 1,2cm x 2,5cm, điểm thắp nhất cách mặt đất 46cm và cách đầu ốp bảo vết 19cm.

Kỹ thuật an toàn phương tiện: Hệ thống lái, hệ thống phanh còn hoạt động, hệ thống điện, đèn, còi, xi nhan không có chìa khóa nên không kiểm tra được.

* Kết quả khám nghiệm xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát: 17C-056.93, rơ moóc biển kiểm soát: 17R-002.18. Quá trình khám nghiệm phát hiện các dấu vết để lại như sau:

Kiểm tra toàn bộ phần đầu phía trước, sườn xe bên phải, bên trái của xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát: 17C-056.93, rơ moóc biển kiểm soát: 17R-002.18 không phát hiện dấu vết gì nghi vấn.

Kiểm tra phía sau đuôi xe: Góc bên trái thanh kim loại bảo vệ rơ moóc có vết cong vênh kim loại chiều hướng từ sau về trước, từ phải sang trái, tâm điểm cong vênh cách đầu bên trái thanh bảo vệ bằng kim loại 59cm, vết này làm đầu bên trái thanh kim loại bảo vệ ép sát vào chắn bùn phía sau bên trái của dàn lốp cuối bên trái rơ moóc, điểm thấp nhất của thanh kim loại này cách mặt đất 56cm. Góc phía dưới bên trái chắn bùn phía sau của dàn lốp cuối bên trái rơ moóc có vết trượt xước móp méo kim loại, trên diện 18cm x 10cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 58cm. Góc dưới khung rơ mooc phía sau bên trái có vết bong tróc sơn, kim loại rỉ sét, kích thước 6,5cm x 10cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 94cm.

Kỹ thuật an toàn phương tiện: Hệ thống lái, hệ thống phanh, đèn, còi, đèn xi nhan còn hoạt động.

* Kết quả giám định pháp y:

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 61/TT ngày 07/6/2019 của trung tâm pháp y sở y tế Vĩnh Phúc, kết luận: Nguyên nhân tử vong của nạn nhân Lưu Công B là do sốc tủy, không hồi phục do chấn thương tủy cổ trên nạn nhân đa chấn thương.

* Kết quả các giám định khác:

Ngày 05/6/2019, phòng Kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận số 942 xác định: Mẫu chất lỏng màu nâu đỏ kí hiệu A1 ghi là mẫu máu thu được của tử thi Lưu Công B, sinh năm 1977, trú tại xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội gửi đến giám định có cồn (Ethanol), nồng độ cồn (Ethanol) trong máu là 338,052 mg/100ml.

Ngày 20/7/2019, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Phúc Yên xác định xác định: chi phí để sửa chữa, khắc phục hư hỏng thiệt hại của xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade biển kiểm soát: 29Y7-006.45 trong vụ tai nạn giao thông là 5.000.000đ (Năm triệu đồng).

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng:

-01 Giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 790073013385, mang tên Phạm Văn T, do Sở giao thông thành phố Hải Phòng cấp ngày 09/11/2017.

-01 xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát biển kiểm soát: 17C-056.93 kéo rơ moóc biển kiểm soát: 17R-002.18; 01 chứng nhận đăng kí xe ô tô BKS: 17C-056.93 bản sao công chứng + 01 giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát biển kiểm soát: 17C-056.93 + giấy chứng nhận kiểm định và 01 giấy chứng nhận đăng kí rơ mooc, sơ mi rơ mooc BKS: 17R-002.18 bản sao có công chứng + 01 giấy chứng nhận kiểm định. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên là tài sản hợp pháp của Công ty TNHH N M. Ngày 26/6/2019 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phúc Yên đã trả lại xe ô tô trên cùng giấy tờ liên quan cho chủ sở hữu. Đại diện hợp pháp của Công ty TNHH N M đã nhận lại tài sản và không có đề nghị gì khác.

-01 đĩa DVD bên trong lưu giữ đoạn video ghi lại 01 phần hành ảnh của vụ tai nạn giao thông nêu trên chuyển theo hồ sơ vụ án.

-01 xe mô tô đeo BKS: 29Y7-006.45, có số khung: RLHJF4601DY338788; số máy: JF46F-4227027. Quá trình trình điều tra, đến nay chưa xác định được nguồn gốc chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc giữ lại tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau.

Về trách nhiệm dân sự:

Sau khi sự việc xảy ra, Phạm Văn T đã bồi thường cho gia đình người bị hại anh Lưu Công B số tiền là 60.000.000đồng (Sáu mươi triệu đồng), đại diện gia đình bị hại là chị Tạ Thị Hương L sinh năm 1981, trú tại xã Q, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội (là vợ anh B) đã nhận đủ số tiền trên và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho Phạm Văn T, đồng thời không có bất cứ yêu cầu đề nghị bồi thường gì khác.

Tại Cáo trạng số 04/CT-VKSPY ngày 26 tháng 12 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên truy tố Phạm Văn T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo: Giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng đối với bị cáo Phạm Văn T. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, 2, 5 Điều 65 của luật Hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi; thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Về vấn đề bồi thường dân sự đã được các bên thỏa thuận không đề nghị giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 790073013385 mang tên Phạm Văn T. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại gì, đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến gì về các hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Sau khi thẩm tra các chứng cứ có trong hồ sơ, nghe lời khai của bị cáo, ý kiến của kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Phạm Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ như: Lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; lời khai của người làm chứng; phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông, bản ảnh hiện trường, kết quả khám nghiệm phương tiện, bản ảnh khám phương tiện, Bản kết luận giám định pháp y về tử thi cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 01 giờ 15 phút ngày 01/6/2019, Phạm Văn T sinh năm điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 17C-056.93, kéo theo Rơ moóc biển kiểm soát: 17R-002.18 đến cổng công ty Viglacera và tắt máy, đỗ ở làn đường hỗn hợp giành cho xe mô tô và xe thô sơ, giáp vỉa hè trên đường QL2A theo hướng từ thành phố Phúc Yên đi thành phố Hà Nội để đợi đến khi trời sáng vào công ty Viglacera lấy ngói. Sau khi đỗ xe, T tắt máy nằm ngủ trên cabin xe mà không thực hiện các biện pháp cảnh báo an toàn cho các phương tiện khác tham gia lưu thông trên đường nên đến khoảng 02 giờ 00 phút cùng ngày, khi anh Lưu Công B điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29Y7-006.45 trên đường đi làm về nhà đã đâm vào thanh kim loại bảo vệ phía sau bên trái rơ moóc biển kiểm soát 17R-002.18 của xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 17C-056.93. Hậu quả anh Lưu Công B tử vong.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã vi phạm Phạm Văn T đã vi phạm điểm d khoản 3 Điều 18 Luật Giao thông đường bộ.

Khoản 3 Điều 18 Luật giao thông đường bộ quy định: “… 3. Người điều khiển phương tiện khi dừng xe, đỗ xe trên đường bộ phải thực hiện các quy định sau đây:

… “d. Sau khi đỗ xe, chỉ được rời khỏi xe khi đã thực hiện các biện pháp an toàn; nếu xe đỗ chiếm một phần đường xe chạy phải đặt ngay biển báo hiệu nguy hiểm ở phía trước và phía sau xe để người điều khiển phương tiện khác biết…”

Do vậy Phạm Văn T đã phạm vào tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự;

Điểm a khoản 1 điều 260 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000đồng đến 100.000.000đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.

a) Làm chết người;

[ 2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, hậu quả làm 1 người chết. Do vậy cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[3] Xét nhân thân bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình và bị cáo đã tự nguyện bồi thường tổn thất tinh thần cho gia đình người bị hại số tiền 60.000.000đồng. Nay đại diện gia đình người bị hại không yêu cầu phải bồi thường gì khác và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Hơn nữa trong vụ án này người bị hại cũng có một phần lỗi là uống rượu khi tham gia giao thông (nồng độ cồn Ethanol trong máu khi tham gia giao thông là 338,052 mg/100ml). Nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Hội đồng xét xử thấy khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, đáng được khoan hồng và có đủ điều kiện để áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, không cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù, mà cho bị cáo hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách và giao cho chính quyền địa phương nơi bị cáo thường trú giám sát, giáo dục với mức án như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cũng đủ để răn đe, giáo dục chung cũng như tạo điều kiện giúp bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm và trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 260 BLHS, bị cáo có thể bị phạt bổ sung cấm hành nghề từ 01 đến 05 năm. Tuy nhiên Hội đồng xét xử xét thấy: Lái xe là nghề duy nhất của bị cáo, hơn nữa trong trường hợp này bị cáo phạm lỗi đỗ xe không có biển cảnh báo nguy hiểm ở phía trước và phía sau xe để báo cho người điều khiển phương tiện khác biết, người bị hại điều khiển xe mô tô cũng có lỗi đó là điều khiển xe trong tình trạng đã uống rượu nên cần tạo điều kiện để bị cáo trở lại làm việc và kiếm sống. Do vậy, không cấm hành nghề đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra tai nạn bị cáo đã cùng gia đình đến thăm hỏi bồi thường về tính mạng, tổn thất tinh thần cho gia đình bị hại với số tiền 60.000.000đồng (sáu mươi triệu đồng). Chị Tạ Thị Hương L đại diện cho gia đình người bị hại đã nhận đủ số tiền trên, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại phiên tòa bị cáo và đại diện cho gia đình người bị hại vẫn thống nhất về việc bồi thường như trên, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng: Cần trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 790073013385 mang tên Phạm Văn T.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phúc Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn T 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (hai B) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Phạm Văn T cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo Phạm Văn T 01 giấy phép lái xe lái xe ô tô hạng FC số 790073013385 mang tên Phạm Văn T (Vât chứng theo biên ba n giao nhâ n vâ t chứng giữa Công an thành phố Phúc Yên với chi cuc thi hanh an th ành phố Phúc Yên lập ngày 15 tháng 01 năm 2020).

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; buôc bị cáo Phạm Văn T phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, đại diện hợp pháp người bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người đại đại diện hợp pháp cho người bị hại, người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:07/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phúc Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về