Bản án 07/2020/HSST ngày 14/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 

BẢN ÁN 07/2020/HSST NGÀY 14/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Bình Thạnh tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 202/2019/TLST-HS ngày 02/12/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/QĐXXST-HS ngày 02/01/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn T; giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không có; Sinh năm: 1994; Tại: Tỉnh N; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nơi đăng ký HKTT: khu phố B, phường B, thành phố N, tỉnh Tây Ninh; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Thợ cơ khí; Họ tên cha: Nguyễn Trí N; Họ tên mẹ: Dương Thị S; Gia đình có 3 anh em, bị can là con giữa trong gia đình; Vợ: Ngô Hồng N; Con: Nguyễn Q, sinh năm: 2014; Tiền án, tiền sự: không; Tạm giam từ ngày 28/11/2018 (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Ngô Hồng N (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố M, phường B, thành phố N, tỉnh Tây Ninh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 03 giờ 30 ngày 28/11/2018, tổ tuần tra công an phường 5, quận Bình Thạnh khi tuần tra đến trước số C đường L, phường N, quận B thì phát hiện Nguyễn T đang điều khiển xe gắn máy biển số 70B1-799.37 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe đưa về trụ sở để kiểm tra. Qua kiểm tra thu giữ được trong túi áo bên trái phía trong của áo khoác T đang mặc có 01 túi vải màu da báo bên trong có 07 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu, 01 gói nylon chứa 07 viên nén tròn màu xanh ngọc và chất bột màu xanh ngọc, 01 bóp vải trên bề mặt có in hoa văn hình con voi bên trong có số tiền 26.000.000 đồng. Công an phường 5 lập biên bản phạm tội quả tang chuyển Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Bình Thạnh lập hồ sơ xử lý. (BL 31-32) Căn cứ kết luận giám định số 83/KLGĐ-H ngày 05/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m1 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 17,8752g (một bảy phẩy tám bảy năm hai), loại Methamphetamine.

- Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m2 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 10,0736g (mười phẩy không bảy ba sáu), loại Methamphetamine.

- Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m3 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,4599g (hai phẩy bốn năm chín chín), loại Methamphetamine.

- Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m4 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 5,0154g (năm phẩy không một năm bốn), loại Methamphetamine.

- Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m5 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,9654g (bốn phẩy chín sáu năm bốn)loại Methamphetamine.

- Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 5,0557g (năm phẩy không năm năm bảy), loại Methamphetamine.

- Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m7 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 5,1328g (năm phẩy một ba hai tám), loại Methamphetamine.

- 07 viên nén hình tròn màu xanh ngọc được ký hiệu mẫu m8 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,2856g (hai phẩy hai tám năm sáu), loại MDMA.

- Bột màu xanh ngọc được ký hiệu mẫu m9 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2002g (không phẩy hai không không hai), loại MDMA. (BL 31-32) Tại Cơ quan cảnh sát điều tra:

- Nguyễn T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình như sau: Toàn bộ số ma túy thu giữ của T là của một người bạn tên H (không rõ lai lịch) chơi game chung hẹn ra gặp mặt nhờ cất giùm. Khoảng 00 giờ 00 phút, T ra điểm hẹn của H tại chân cầu M. Lúc đó, H đưa 02 túi đồ (01 bóp hình con voi và một túi da báo) và nói là ma túy, cùng với số tiền 26.000.000 đồng. H kêu cất giữ giùm vì H đang bận việc vài ngày sau H sẽ gọi điện để nói sẽ làm gì với số ma túy trên. Đến sáng ngày 28/11/2018 T cất giấu 2 túi trên vào túi áo bên trái phía trong áo khoác của T đang mặc rồi chạy xuống thành phố để trưa đi đám cưới người bạn. Khi đi tới số C đường L, phường N, quận B thì bị kiểm tra thu giữ số ma túy trên. Việc cất giữ giùm không nhằm mục đích mua bán hay vận chuyển ma túy.

Tại bản cáo trạng số 116/CT-VKSBTh ngày 18/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh đã truy tố bị cáo Nguyễn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh thực hiện quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, trình bày lời luận tội, đánh giá tính chất, mức độ và hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; áp dụng điểm h khoản 3 Điều 249 và điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 11 đến 12 năm tù.

- Về xử lý vật chứng: 01 gói niêm phong ghi số 83/2019 có chữ ký của Giám định viên Trần Đình Hải và cán bộ điều tra Trần Thu Hằng, bên trong gồm: mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định là tinh thể rắn không màu có khối lượng 48,4865 gam và 05 viên nén tròn màu xanh ngọc và chất bột màu xanh ngọc có khối lượng 1,6155 gram; 01 áo khoác jean màu xanh; 01 túi vải màu da báo; 01 túi vải hòa văn hình con voi là chứng cứ vụ án, không có giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại hiệu OPPO là phương tiện bị cáo sử dụng để phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; Số tiền 26.000.000 đồng do đối tượng tên H đưa có liên quan đến số ma túy trên nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; 01 xe gắn máy hiệu Exciter biển số 70B1-79937, số khung G3D4E-842365, số máy RLCUG1010JY046331. Qua xác minh, xe trên là của bà Ngô Hồng N đứng tên sở hữu là vợ cũ của T. Việc bị cáo T mượn xe của bà N để phạm tội, bà N không biết nên đề nghị trả lại xe cho bà N.

* Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu và không có ý kiến gì tranh luận với phần luận tội của đại diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức việc làm của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Bình Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, cũng những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại cơ quan điều tra cũng như qua thẩm tra xét hỏi trước phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng là ma tuý thu giữ của bị cáo, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với kết luận của tổ chức giám định kỹ thuật hình sự về chất ma tuý thu được của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo Nguyễn T là người đã trưởng thành, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đã có hành vi khi biết hai túi đồ của đối tượng tên H đưa là ma túy nhưng bị cáo vẫn cất giữ giùm thì bị bắt quả tang, số ma tuý thu giữ của bị cáo theo kết luận giám định số 83/KLGĐ – H ngày 05/12/2018 kết luận: Tinh thể không màu là ma tuý ở thể rắn, có tổng khối lượng là 50,578 gam, loại Methampheamine và 2,4858 gam loại MDMA nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ đúng pháp luật.

Với hành vi nêu trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; bị cáo tàng trữ ma túy loại Methampheamine có tổng khối lượng là 50,578 gam và ma túy lại MDMA có khối lượng 2,4858 gam thuộc trường hợp tàng trữ 02 chất ma túy là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất, mức độ, động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo: Bị cáo T đủ khả năng nhận thức ma tuý là chất gây nghiện mà Nhà nước cấm nhưng bị cáo vẫn giữ giùm, điều này gây tác hại rất lớn cho xã hội. Xét hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý chất gây nghiện, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh, phát triển các tệ nạn xã hội khác nên cần phải xử phạt bị cáo một mức hình phạt thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi vi phạm của mình, nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự, bị cáo phạm tội lần đầu là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định.

[5]. Đối với đối tượng tên H (chưa rõ lai lịch) cần kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ nếu có căn cứ phạm tội sẽ xử lý sau.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 gói niêm phong ghi số 83/2019 có chữ ký của Giám định viên Trần Đình Hải và cán bộ điều tra Trần Thu Hằng, bên trong gồm: mẫu vật còn sót lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định là tinh thể rắn không màu có khối lượng 48,4865 gam và 05 viên nén tròn màu xanh ngọc và chất bột màu xanh ngọc có khối lượng 1,6155 gam; 01 áo khoác jean màu xanh; 01 túi vải màu da báo; 01 túi vải hòa văn hình con voi là chứng cứ vụ án, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại hiệu OPPO là phương tiện bị cáo sử dụng để phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Số tiền 26.000.000 đồng là của đối tượng tên H gửi cho bị cáo T có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- 01 xe gắn máy hiệu Yamaha số loại: Exciter; mang biển số: 70B1-79937, số khung G3D4E-842365, số máy RLCUG1010JY046931. Qua xác minh, xe trên là của bà Ngô Hồng N đứng tên sở hữu là vợ cũ của T. Việc bị cáo T mượn xe để làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội bà N không biết nên cần trả lại xe cho bà N là có căn cứ đúng pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 249 và điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn T 11 (Mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/11/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 45 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi số 83/2019 có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải và cán bộ điều tra Trần Thu Hằng, bên trong gồm: mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định là tinh thể rắn không màu có khối lượng 48,4865 gam và 05 viên nén tròn màu xanh ngọc và chất bột màu xanh ngọc có khối lượng 1,6155 gam; 01 áo khoác jean màu xanh; 01 túi vải màu da báo; 01 túi vải hòa văn hình con voi.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại hiệu OPPO và số tiền 26.000.000 đồng.

- Trả lại cho bà Ngô Hồng N 01 xe gắn máy hiệu Yamaha số loại: Exciter; mang biển số: 70B1-79937, số khung G3D4E-842365, số máy RLCUG1010JY046931.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/7/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Bình Thạnh).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và Lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) án phí hình sự sơ thẩm, nộp tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331 và 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2020/HSST ngày 14/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:07/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về