Bản án 07/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 07/2020/HS-ST NGÀY 06/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2020/QĐXXST-HS ngày 26/10/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn D; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh năm 1993; Nơi sinh: Huyện T, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: Bản P, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Nguyễn Văn K, đã chết và con bà Đặng Thị Ư, sinh năm 1971; Gia đình có 02 anh chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Vợ, con: Chưa có; Tiền án; tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 27/2012/HSST, ngày 30/3/2012, Nguyễn Văn D bị Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu: Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 53; Điều 68; Điều 69; khoản 1 Điều 74; khoản 1, 2 Điều 60 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 18 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian thử thách là 36 tháng, hiện đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 17/6/2020, ngày 23/6/2020 bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại Bản P, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 21 giờ ngày 17/6/2020, Nguyễn Văn D điều khiển xe mô tô BSK 25B1 - 474.02, nhãn hiệu: HONDA, loại xe: WAVE RSX, màu sơn: đen - bạc từ nhà tại bản P, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu xuống khu vực bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện Than Uyên để tìm mua Heroine về sử dụng. Khi đi đến khu vực bản Noong Thăng, D gặp một người đàn ông dân tộc Mông (không rõ nhân thân, lai lịch), qua trao đổi, nói chuyện D hỏi người đàn ông này “Có hàng không”? (hàng tức là Heroine), người đàn ông này trả lời “Đưa tiền đây, đi tìm cho”, nghe người đàn ông này nói vậy, D đưa 200.000 đồng, người đàn ông cầm tiền và nói “Đợi ở đây đi kiếm cho” rồi đi vào trong bản Noong Thăng, xã Phúc Than. Một lúc sau, người đàn ông quay lại và đưa cho D 02 gói Heroine, bên ngoài mỗi gói đều được gói bằng mảnh nilon màu xanh. Sau khi đưa Heroine cho D xong người đàn ông này đi đâu D không biết, còn D cầm số Heroine đi vào bụi cây ven đường trích lấy một phần Heroine từ 01 gói Heroine vừa mua được ra để sử dụng hết (chích). Sử dụng Heroine xong, D đổ dồn cả 02 gói Heroine vừa mua được thành một gói, lớp bên ngoài gói bằng 03 mảnh nilon màu hồng, lớp bên trong gói bằng mảnh nilon màu xanh, sau đó D cất giấu gói Heroine vào bên trong lớp cao su màu đen bọc ở chân gương chiếu hậu bên phải xe mô tô của D rồi điều khiển xe quay về nhà. Khi D đi đến khu vực bản Thanh Sơn, xã Pắc Ta, huyện Tân Uyên, thì bị Công an xã Pắc Ta phát hiện bắt quả tang, thu giữ của D 01 gói Heroine lớp bên ngoài gói bằng 03 mảnh nilon màu hồng, lớp bên trong gói bằng mảnh nilon màu xanh có khối lượng 0,52 gam, mục đích để sử dụng và 01 xe mô tô BSK 25B1 - 474.02, nhãn hiệu: HONDA, loại xe: WAVE RSX, màu sơn: đen - bạc, Số khung: 3902YH530926; số máy: JA39E0506062, xe đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong.

Ngày 17/6/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Uyên đã tiến hành thành lập hội đồng mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu vật giám định và niêm phong vật chứng. Kết quả: 01 gói Heroine lớp bên ngoài được gói bằng 03 mảnh nilon màu hồng, bên trong gói bằng mảnh nilon màu xanh thu giữ cùa Nguyễn Văn D có khối lượng 0,52 gam Tại kết luận giám định số 338/GĐ-KTTH ngày 25/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: “01 mẫu chất bột, màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn D gửi giám định là ma túy, loại: Heroine” Bản cáo trạng số 51/CT - VKS - TU ngày 02/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận điều tra và bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Văn D thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên.

Tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Uyên, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Hồi 21 giờ 45 phút ngày 17/6/2020, tại khu vực bản Thanh Sơn, xã Pắc Ta, huyện Tân Uyên, bị cáo Nguyễn Văn D đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,52 gam. Mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Công an xã Pắc Ta, huyện Tân Uyên phát hiện, bắt quả tang.

Bị cáo Nguyễn Văn D là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Ý thức được điều đó nhưng bị cáo cố ý tàng trữ Heroine để thỏa mãn nhu cầu nghiện ma túy của bản thân. Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định hành vi của bị cáo Nguyễn Văn D đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy…, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm… ...

c) Heroine,...có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05 gam.

Vì vậy, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 27/2012/HSST, ngày 30/3/2012 bị cáo Nguyễn Văn D bị Tòa án nhân Tân huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Thời gian thử thách là 36 tháng, đến thời điểm phạm tội bị cáo đã được xóa án tích.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có ông, bà nội đều được Chủ tịch nước tặng Huân chương kháng chiến vì đã có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nên bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Không có.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần thiết phải xử phạt tù bị cáo trên mức khởi điểm của khung hình phạt để tiếp tục răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo làm nghề tự do, nguồn thu nhập không ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

01 bì thư làm bằng phong bì của Công an huyện Tân Uyên bên trong đựng 0,32 gam Heroine; 01 mảnh nilon màu xanh và 03 mảnh nilon màu hồng. Đây là những vật chứng cấm tàng trữ và không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

01 xe mô tô BSK 25B1 - 474.02, nhãn hiệu: HONDA, loại xe: WAVE RSX, màu sơn: đen - bạc, xe đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của bà Đặng Thị Ư (là mẹ đẻ của bị cáo), sinh năm 1971, trú tại bản P, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu. Ngày 16/7/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Uyên đã tiến hành trả lại chiếc xe trên cho bà Ư là phù hợp với quy định của pháp luật.

6] Những vấn đề liên quan:

Về nguồn gốc 01 gói Heroine, bị cáo D khai mua của một người đàn ông dân tộc Mông (không rõ nhân thân, lai lịch). Quá trình điều tra không xác định được nên không có căn cứ để điều tra xử lý.

Đối với bà Đặng Thị Ư là người cho bị cáo D mượn xe mô tô, quá trình điều tra bà Ư không biết bị cáo D dùng xe của mình vào việc phạm tội nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38: điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

[2]Về hình phạt: Xử phạt bị cáo 18 (Mười tám) tháng tù. Khấu trừ 06 (Sáu) ngày tạm giữ, còn lại bị cáo phải chấp hành 17 (Mười bảy) tháng 24 (Hai mươi bốn) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành hình phạt.

[3] Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư làm bằng phong bì của Công an huyện Tân Uyên bên trong đựng 0,32 gam Heroine; 01 mảnh nilon màu xanh và 03 mảnh nilon màu hồng.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 08 giờ 00 phút ngày 19/10/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Uyên với Chi Cục thi hành án dân sự huyện Tân Uyên).

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:07/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về