Bản án 07/2020/HNGĐ-ST ngày 30/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 07/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 30/7/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 60/2020/TLST - HNGĐ ngày 27/4/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2020/QĐXX-HNGĐ, ngày 30/6/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2020/QĐST-HNGĐ ngày 16/7/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T; Địa chỉ: tổ 15, phường Q, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Hiện công tác tại Trường THPT P, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Anh T; Địa chỉ: Bản T, xã P, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Hiện đang chấp hành án tại đội 44, phân trại số 3, Trại giam T, xã X, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội.Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 21/3/2020 và lời khai bổ sung tại Toà án nhân dân huyện Thuận Châu. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Anh T kết hôn với nhau từ ngày 30/9/2011 tại UBND xã Phổng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La kết hôn do cả hai bên cùng tự nguyện, không bên nào bị cưỡng ép, lừa dối . Sau khi kết hôn chị và anh T chung sống hoà thuận hạnh phúc với nhau đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng bị rạn nứt. Nguyên nhân chính phát sinh mâu thuẫn là do anh T sử dụng ma túy, chị đã can ngăn giúp đỡ để anh T từ bỏ ma túy nhưng anh T không thay đổi tiếp tục sử dụng ma túy, dẫn đến bất đồng quan điểm sống, hai vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, cuộc sống hôn nhân rơi vào bế tắc. Đến năm 2018 anh T bị bắt và bị xử về 7 năm 6 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, hiện đang thi hành phạt tù tại trại giam Thanh Xuân. Chị T nhận thấy cuộc hôn nhân này không còn hạnh phúc, vợ chồng không còn tin tưởng, thương yêu nhau, không thể chia sẻ mọi khó khăn trong cuộc sống nên đã viết đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Anh T. Tại phiên tòa chị T giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh T.

- Về con chung: Trong thời gian chung sống anh, chị có hai con chung: Cháu Nguyễn Việt T, sinh ngày 28/8/2012 và cháu Nguyễn Mạnh H, sinh ngày 02/6/2014. Nay ly hôn nguyện vọng của chị T là được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cả hai cháu cho đến khi cháu trưởng thành. Chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản riêng: Không có.

- Về nợ chung : Không có.

*Tại bản tự khai ngày 24/5/2020 anh Nguyễn Anh T khai xác nhận:

- Về hôn nhân: Quá trình kết hôn giữa anh và chị Nguyễn Thị T như lời khai của chị T là đúng. Hai vợ chồng chung sống hoà thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì anh bị bắt về tội mua bán trái phép chất ma túy. Nay anh T xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh T không nhất trí ly hôn.

- Về con chung: Trong thời gian chung sống anh, chị có hai con chung đúng như chị T khai. Do không đồng ý ly hôn nên không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản riêng: Không có.

- Về nợ chung :Không có.

Tại phiên kiểm tra giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 22/6/2020 và biên bản tống đạt ngày 10/7/2020 tại Trại giam Thanh Xuân : Các đương sự không cung cấp thêm chứng cứ cho Tòa án, các đương sự không có ý kiền gì về các chứng cứ do các đương sự khác xuất trình và không yêu cầu triệu tập đương sự khác, người làm chứng, người tham gia tố tụng khác. Tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Tại phiên tòa đại diện viện kiểm sát phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay nguyên đơn, đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của đương sự, nội quy phiên tòa đúng theo quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đang thi hành án tại Trại giam Thanh Xuân đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của đương sự đúng theo quy định tại các Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Áp dụng Điều 28; Điều 35; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51; 56, 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dung án phí và lệ phí Tòa án.

Đề nghị:

- Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Anh T.

- Về con chung: Xử giao hai cháu Nguyễn Việt T, sinh ngày 28/8/2012 và cháu Nguyễn Mạnh H, sinh ngày 02/6/2014 cho chị T là được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành. Chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Nguyễn Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Nguyễn Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Xét yêu cầu giải quyết việc ly hôn của nguyên đơn chị Nguyễn Thị T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết bị đơn anh Nguyễn Anh T đang thi hành án phạt tù tại trại giam Thanh Xuân - Hà Nội anh T đã viết bản tự khai, đã được giao nhận kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, giao nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định Điều 177 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Anh T có làm đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt do đó Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp quy định pháp luật.

[2]. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phổng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La vào ngày 30/9/2011 đúng theo quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh T là hợp pháp. Quá trình chung sống anh, chị đã phát sinh mâu thuẫn từ năm 2014. Nguyên nhân chính phát sinh mâu thuẫn là do anh T sử dụng ma túy, chị T đã can ngăn giúp đỡ để anh T từ bỏ ma túy nhưng anh T không thay đổi tiếp tục sử dụng ma túy, dẫn đến bất đồng quan điểm sống, hai vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, cuộc sống hôn nhân rơi vào bế tắc. Đến năm 2018 anh T bị bắt và bị xử 7 năm 6 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, hiện đang thi hành phạt tù tại trại giam Thanh Xuân. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa anh, chị đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị T có đơn yêu cầu xin ly hôn với anh T và tại phiên tòa chị T giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh T, anh T không nhất trí ly hôn, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, xử cho chị T ly hôn với anh T.

[3]. Về con chung: Trong thời gian chung sống anh, chị có hai con chung:

Cháu Nguyễn Việt T, sinh ngày 28/8/2012 và cháu Nguyễn Mạnh H, sinh ngày 02/6/2014. Nay ly hôn nguyện vọng của chị T là được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cả hai cháu cho đến khi cháu trưởng thành. Chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Anh T không đồng ý ly hôn nên không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.

Hội đồng xét xử căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên, xem xét chị T có điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc các con hàng ngày. Tại biên bản ghi ý kiến ngày 22/6/2020 nguyện vọng của cháu Nguyễn Việt T sẽ ở với mẹ, tại phiên tòa chị Nguyễn Thị T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cả hai cháu cho đến khi cháu trưởng thành. Căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử xét thấy hiện anh T đang thi hành án phạt tù không thể có điều kiện chăm sóc con, việc anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung là không có căn cứ, cần giao hai cháu Nguyễn Việt T và cháu Nguyễn Mạnh H cho chị T để chị T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng là hợp tình, hợp lý để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho các cháu như ăn mặc, học hành và những điều kiện cho sự phát triển về thể chất và tinh thần. Chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung là có căn cứ cần được chấp nhận, sau khi ly hôn anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở, người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó căn cứ Điều 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4].Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5]. Về tài sản riêng: Không có.

[6]. Về nợ chung : Không có.

[7]. Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Hội đồng xét xử buộc chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án xin ly hôn theo quy định của pháp luật.

[8]. Về quyền kháng cáo : Đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 177, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Anh T.

2. Về con chung: Xử giao hai cháu Nguyễn Việt T, sinh ngày 28/8/2012 và cháu Nguyễn Mạnh H, sinh ngày 02/6/2014 cho chị Nguyễn Thị T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành. Anh Nguyễn Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Nguyễn Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ ( Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000đ ( Ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thuận Châu theo biên lai thu số: AA/2016/0004303, ngày 27/4/2020.

4. Về quyền kháng cáo : Chị Nguyễn Thị T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Anh Nguyễn Anh T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2020/HNGĐ-ST ngày 30/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:07/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về