Bản án 07/2020/HNGĐ-ST ngày 29/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 07/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 596/2019/TLST- HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2019 về "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Hồng Nh, sinh năm 1995;

Địa chỉ: Số nhà 83, ấp X, xã A, huyện P, tỉnh BD. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Bị đơn: Ông Phạm Công H, sinh năm 1995;

Địa chỉ: Ấp 6, xã A, huyện P, tỉnh BD. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng Nh trình bày:

- Về hôn nhân: Bà và ông Phạm Công H tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn vào ngày 31 tháng 12 năm 2014 tại Ủy ban nhân dân xã An Linh, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Sau khi kết hôn, thời gian đầu chung sống với nhau rất hạnh phúc nhưng sau đó không hạnh phúc nữa. Nguyên nhân mâu thuẫn: Hai vợ chồng thường bất đồng quan điểm và hay cãi nhau, không hợp nhau. Tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, không còn hàn gắn được nữa. Hiện tại, bà và ông H không còn chung sống với nhau, cuộc sống hai vợ chồng không còn hạnh phúc, tình cảm vợ chồng đã không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài. Vì vậy, bà quyết định ly hôn với ông Phạm Công H.

- Về con chung: Bà và ông H có hai con chung tên Phạm Nguyễn Bảo T, sinh ngày 11/5/2015 và Phạm Nguyễn Bảo Th, sinh ngày 17/3/2017. Nếu được Tòa án giải quyết cho ly hôn, bà xin được quyền nuôi con chung và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung Phạm Nguyễn Bảo Th và Phạm Nguyễn Bảo Th.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai của đương sự và bản tự khai, bị đơn ông Phạm Công H trình bày:

- Về hôn nhân: Ông và bà Nh tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn vào ngày 31 tháng 12 năm 2014 tại Ủy ban nhân dân xã An Linh, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Sau khi kết hôn, thời gian đầu chung sống với nhau rất hạnh phúc. Nguyên nhân mâu thuẫn: Hai vợ chồng thường bất đồng quan điểm và hay cãi nhau, không hợp nhau. Tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, không còn hàn gắn được nữa. Hiện tại, ông và bà Nh không còn chung sống với nhau, cuộc sống hai vợ chồng không còn hạnh phúc, tình cảm vợ chồng đã không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài. Với yêu cầu xin ly hôn của bà Nh, ông H đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Ông và bà Nh có hai con chung tên Phạm Nguyễn Bảo Th, sinh ngày 11/5/2015 và Phạm Nguyễn Bảo Th, sinh ngày 17/3/2017. Nếu được Tòa án giải quyết cho ly hôn, ông xin nhường quyền nuôi con chung Phạm Nguyễn Bảo T và Phạm Nguyễn Bảo Th cho bà Nh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

- Về tài sản chung, nợ chung: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết, không có yêu cầu phản tố với bà Nguyễn Thị Hồng Nh.

Đồng thời, ông H có đơn xin xét xử vắng mặt, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt ông theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu:

- Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình thụ lý, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã tiến hành đúng, đầy đủ các thủ tục và thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Hồng Nh và ông Phạm Công H chung sống với nhau có đăng ký kết hôn nên hôn nhân giữa bà Nh và ông H là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống xảy ra mâu thuẫn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Nh yêu cầu được ly hôn. Bị đơn ông Phạm Công H hiện đang chấp hành án theo quyết định của Bản án số 16/2020/HS-ST ngày 07/5/2020 của Toà án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định pháp luật. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà Nguyễn Thị Hồng Nh được ly hôn với ông Phạm Công H.

Về con chung: Do cháu Phạm Nguyễn Bảo T và Phạm Nguyễn Bảo Th còn nhỏ, để không ảnh hưởng tâm sinh lý và sự phát triển bình thường về sau của trẻ nên đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Phạm Nguyễn Bảo T và Phạm Nguyễn Bảo Th cho bà Nguyễn Thị Hồng Nh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Nguyễn Thị Hồng Nh không yêu cầu ông Phạm Công H cấp dưỡng nuôi con chung Phạm Nguyễn Bảo T và Phạm Nguyễn Bảo Th nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bà Nh không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung Phạm Nguyễn Bảo T và Phạm Nguyễn Bảo Th.

Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng Nh là có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận và không kiến nghị khắc phục hay bổ sung gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng Nh về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; hiện bị đơn ông Phạm Công H đang thường trú tại xã An Linh, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương và nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng Nh có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về việc vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng Nh có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật. Sau khi thụ lý vụ án, Toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như: Thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên hòa giải, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị đơn ông Phạm Công H, nhưng hiện tại ông Hậu đang chấp hành án và có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt trong các buổi hoà giải, phiên toà sơ thẩm. Do vậy, Toà án căn cứ vào các Điều 5, 6, 91 và các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự để giải quyết vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[3] Về hôn nhân: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng Nh và bị đơn ông Phạm Công H chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã An Linh, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương nên đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, hiện hai vợ chồng đã sống ly thân, nên nguyên đơn xin ly hôn với bị đơn.

[4] Theo Biên bản xác minh tại xã Ủy ban nhân dân An Linh, huyện Phú Giáo ngày 21 tháng 01 năm 2020 thì ông H và bà Nh chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An Linh, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp ly hôn giữa ông H và bà Nh thì chính quyền địa phương không nắm rõ, do đương sự giải quyết nội bộ, cũng không trình báo sự việc hay nhờ chính quyền địa phương can thiệp giải quyết và không có đơn yêu cầu. Hiện tại, bà Nh và ông H đã sống ly thân hơn 02 năm.

[5] Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng bà Nh và ông H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng Nh được ly hôn với ông Phạm Công H theo quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[6] Về con chung: Theo giấy khai sinh, sổ hộ khẩu xác định ông H và bà Nh có hai con chung tên Phạm Nguyễn Bảo T, sinh ngày 11/5/2015 và Phạm Nguyễn Bảo Th, sinh ngày 17/3/2017. Cháu T và Th còn nhỏ, rất cần sự chăm sóc của người mẹ và để không ảnh hưởng tâm sinh lý, sự phát triển bình thường về sau của trẻ Hội đồng xét xử sẽ giao con chung Phạm Nguyễn Bảo T và Phạm Nguyễn Bảo Th cho bà Nguyễn Thị Hồng Nh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Điều này cũng phù hợp với yêu cầu, điều kiện nuôi dưỡng con chung của bà Nhạn.

Về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con: Bà Nguyễn Thị Hồng Nh không yêu cầu ông Phạm Công H phải cấp dưỡng nuôi con chung Phạm Nguyễn Bảo T và Phạm Nguyễn Bảo Th nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[7] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo tham gia phiên tòa là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí: Đương sự phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điều 5, Điều 6, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 91, khoản 4 Điều 147 và các Điều 227, 228, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 và các Điều 58, 81, 82, 83, 84, 85, 86 và 87 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng Nh đối với bị đơn ông Phạm Công H về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

2. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Hồng Nh được ly hôn với ông Phạm Công H.

3. Về con chung:

Giao con chung Phạm Nguyễn Bảo T, sinh ngày 11/5/2015 và Phạm Nguyễn Bảo Th, sinh ngày 17/3/2017 cho bà Nguyễn Thị Hồng Nh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị Hồng Nh không yêu cầu ông Phạm Công H cấp dưỡng nuôi con chung Phạm Nguyễn Bảo T và Phạm Nguyễn Bảo Th.

Ông Phạm Công H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con không ai được ngăn cản. Vì quyền lợi của con chưa thành niên, Toà án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi đương sự có đơn yêu cầu phù hợp quy định pháp luật.

4. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Hồng Nh phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) do bà Nguyễn Thị Hồng Nh đã nộp tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0043043 ngày 27 tháng 12 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2020/HNGĐ-ST ngày 29/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:07/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về