Bản án 07/2020/HNGĐ-ST ngày 29/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THẾ, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 07/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29-5-2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 300/2019/TLST-HNGĐ ngày 16-12- 2019 về việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2020/QĐXXST- HNGĐ, ngày 16-4-2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Thu H, sinh năm 1989 (Có đơn xin vắng mặt).

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn RC, xã TT, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Chỗ ở hiện nay: Khu 3, thị trấn K, huyện LG, tỉnh Bắc Giang.

- Bị đơn: Anh Lục Văn Q, sinh năm 1989 (Vắng mặt). Địa chỉ: Thôn RC, xã TT, huyện YT, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 * Tại đơn khởi kiện, bản tự khai chị Bùi Thị Thu H trình bày:

Chị và anh Q có được tự nguyện tìm hiểu rồi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TT, huyện Yên Thế vào năm 2011. Vợ chồng chung sống hanh phúc được vài năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Q chơi bời, cờ bạc, không thu chí làm ăn, chị đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh Q không thay đổi nên tháng 5-2019 chị đã về nhà mẹ đẻ ở, vợ chồng ly tH từ đó cho đến nay không ai quan tâm ai nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên làm đơn xin ly hôn anh Q. Về con chung: Vợ chồng chị có hai con chung là cháu Lục Minh V, sinh ngày 10-01-2012, hiện đang ở với anh Q và cháu Lục Bùi Bảo H, sinh ngày 01- 02-2014, hiện đang ở với chị H. Khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu H còn để anh Q trực tiếp nuôi cháu V, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, công nợ: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn là anh Lục Văn Q đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không có lời khai trong hồ sơ vụ án.

* Ý kiến của cháu Lục Minh V: Cháu ở với bố từ nhỏ cho đến nay, nay bố mẹ cháu ly hôn cháu có nguyện vọng được ở với bố.

+ Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Việc tuân theo pháp luật của nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân gia đình xử cho chị H được ly hôn anh Q. Về việc nuôi con: Giao cháu Lục Bùi Bảo H cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Lục Minh V cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng, vấn đề cấp dưỡng không đương sự nào yêu cầu nên không đặt ra xem xét. Về án phí: chị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ ý kiến của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về Tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị H xin ly hôn, yêu cầu giải quyết việc nuôi con với anh Q, anh Q có địa chỉ cư trú tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Yên Thế theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Chị H chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, anh Q chưa chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, chị H có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, anh Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị H và anh Q.

[2] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nH: Chị H và anh Q có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TT. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân gia đình. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, mâu thuẫn trầm trọng nhất là vào năm 2019, nguyên nhân do anh Q ham chơi bời, không tu chí làm ăn, không chăm lo cho gia đình. Chị H khai vợ chồng sống ly tH từ tháng 5-2019 nhưng qua xác minh tại gia đình anh Q và chính quyền địa phương có đủ cơ sở khẳng định vợ chồng ly tH từ tháng 7-2019 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai, hôn nhân thực tế đã không tồn tại, mục đích của hôn nhân không đạt được nên việc chị H xin ly hôn là có căn cứ để chấp nhận.

- Về việc nuôi con: Chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Lục Bùi Bảo H, để anh Q trực tiếp nuôi cháu Lục Minh V, Hội đồng xét xử nhận định như sau: Cháu H đang ở cùng mẹ, cháu V đang ở với bố và có nguyện vọng được tiếp tục ở cùng bố, hiện tại cả hai cháu đều phát triển bình thường, cuộc sống ổn định nên cần giao cháu H cho chị H nuôi dưỡng, giao cháu V cho anh Q nuôi dưỡng là phù hợp. Vấn đề cấp dưỡng không ai yêu cầu Tòa án giải quyết không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

- Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

- Về án phí: chị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 1. Về điều luật: Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 147; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân gia đình; Khoản 7 Điều 26, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

2. Về quan hệ hôn nH: Xử cho chị Bùi Thị Thu H được ly hôn anh Lục Văn Q.

3. Về việc nuôi con: Giao cháu Lục Bùi Bảo H, sinh ngày 01-02-2014 cho chị Bùi Thị Thu H được trực tiếp nuôi dưỡng; giao cháu Lục Minh V, sinh ngày 10- 01-2012 cho anh Lục Văn Q trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con chung. Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở họ thực hiện quyền này.

Về tài sản, công nợ: chị Bùi Thị Thu H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về tiền án phí: Chị Bùi Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng chị H đã nộp tại biên lai số AA/2016/0002205 ngày 16-12-2019 do Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thế thu. Xác nhận chị H đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2020/HNGĐ-ST ngày 29/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:07/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thế - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về