Bản án 07/2020/DS-ST ngày 19/06/2020 về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình và chia thừa kế theo pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH N

BẢN ÁN 07/2020/DS-ST NGÀY 19/06/2020 VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH VÀ CHIA THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

Ngày 19 tháng 6 năm 2020, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 400/TLST-DS ngày 08 tháng 8 năm 2018 về “chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình và chia thừa kế theo pháp luật” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2020/QĐXX-ST ngày 28 tháng 4 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 06/2020/QĐ- HPT ngày 21 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn T, sinh năm: 1953. Trú: khu phố X phường Y thành phố P(có mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn V, sinh năm: 1973. Trú: khu phố l, phường B, thành phố P (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghiã vụ liên quan (đều ủy quyền cho bà Nguyễn T):

+ Chị Nguyễn A, sinh năm: 1975, trú: Công Thành, Thành Hải, thành phố P (vắng mặt).

+ Chị Nguyễn B, sinh năm: 1978, trú: khu phố 1, phường Đô Vinh, thành phố P (vắng mặt).

+ Anh Nguyễn C, sinh năm: 1981 (có mặt).

+ Chị Nguyễn D, sinh năm: 1984 (vắng mặt).

+ Chị Nguyễn E, sinh năm: 1987 (vắng mặt).

+ Anh Nguyễn F, sinh năm: 1992 (vắng mặt). Cùng trú: khu phố X, phường Y, thành phố P.

+ Chị Nguyễn K, sinh năm: 1994. Trú: khu phố K, thị trấn H, huyện L, tỉnh N (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bà Nguyễn T kết hôn với ông Nguyễn P từ năm 1971, có đăng ký kết hôn theo Hôn thú số 06/NT/PT lập ngày 26.02.1973 tại huyện P T, tỉnh Q và sinh hạ được 8 người con: anh Nguyễn V, chị Nguyễn A, chị Nguyễn B, anh Nguyễn C, chị Nguyễn D, chị Nguyễn E, anh Nguyễn F, chị Nguyễn K. Ông bà không có con riêng, không có con nuôi. Ông Nguyễn P chết ngày 20 tháng 3 năm 2004, không để lại di chúc.

Hộ gia đình bà Nguyễn T được hợp tác xã cấp các thửa đất sau: thửa 14x tờ bản đồ số 03 diện tích 1.296 m2, thửa 14y tờ bản đồ số 03 diện tích 1.046 m2 , các thửa này được UBND thị xã P cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn P ngày 04/11/1994. Ngoài ra hộ gia đình bà Nguyễn T còn có thửa đất số 17x tờ bản đồ số 5 phường Phước Mỹ do UBND thị xã P cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 14/8/2003, nguồn gốc đất hộ gia đình nhận khoán năm 1994.

Nguyên đơn- bà Nguyễn T- trình bày: Bà khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản ông Nguyễn P để lại và chia tài sản chung là quyền sử dụng các thửa đất 14x, 14y tờ bản đồ địa chính số 03 và thửa 17x tờ bản đồ địa chính số 05 phường Y. Hiện bà đang trực tiếp quản lý các thửa 14x và thửa 14y tờ bản đồ địa chính số 03, anh Tâm trực tiếp quản lý thửa 17x tờ bản đồ địa chính số 05. Bà yêu cầu nhận kỷ phần thừa kế và phần tài sản chung bằng quyền sử dụng đất, bà đồng ý nhận phần thừa kế và phần tài sản chung các con là chị Nguyễn A, chị Nguyễn B, anh Nguyễn C, chị Nguyễn D, chị Nguyễn E, chị Nguyễn K tặng cho. Bà đề nghị được nhận hai thửa 14x và thửa 14y tờ bản đồ địa chính số 03. Bà đề nghị Nguyễn F và Nguyễn V sẽ nhận thửa 17x tờ bản đồ địa chính số 5, mỗi người một nửa, do Nguyễn F mong muốn nhận kỷ phần bằng tiền nên bà yêu cầu Nguyễn V hoàn lại cho F trị giá một nửa diện tích đất thửa 17x tờ bản đồ địa chính số 5.

Bị đơn – anh Nguyễn V- không tham gia tố tụng, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Nhng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: chị Nguyễn A, chị Nguyễn B, anh Nguyễn C, chị Nguyễn D, chị Nguyễn E, chị Nguyễn K đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn T và tặng cho kỷ phần thừa kế và phần tài sản được chia cho bà Tánh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan- anh Nguyễn F - đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn T và yêu cầu được nhận trị giá quyền sử dụng đất bằng tiền.

Tại Công văn số 65/CATP – QLHC ngày 01 tháng 4 năm 2019 của Công an thành phố P, vào thời điểm tháng 11 năm 1994, hộ gia đình bà Nguyễn T gồm có bà và chồng là ông Nguyễn P cùng 07 người con: anh Nguyễn V, chị Nguyễn A, chị Nguyễn B, anh Nguyễn C, chị Nguyễn D, chị Nguyễn E, anh Nguyễn F; riêng chị Nguyễn K nhập hộ khẩu từ tháng 12 năm 1994.

a án nhân dân thành phố P đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ và đo đạc định giá tài sản là các thửa đất 14x tờ bản đồ địa chính số 3 nay tương ứng thửa số 18x tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y diện tích 1.307 m2, thửa 14y tờ bản đồ địa chính số 3 tương ứng thửa số 18y tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y diện tích 1.047 m2, thửa 17x tờ bản đồ địa chính số 5 nay tương ứng thửa 131x tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y diện tích 444 m2.Trị giá đất 70.000 đồng một mét vuông. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà Nguyễn T và anh Nguyễn C không yêu cầu đo đạc, định gía lại tài sản.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp “chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình và chia thừa kế theo pháp luật”. Tại phiên toà nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn vắng mặt dù đã được triệu tập hợp lệ, Tòa án nhân dân thành phố P giải quyết vắng mặt bị đơn phù hợp với thủ tục do Pháp luật Tố tụng dân sự quy định.

[2] Các thửa đất 14x tờ bản đồ số 3 nay tương ứng thửa số 18x tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y diện tích 1.307 m2, thửa 14y tờ bản đồ số 3 tương ứng thửa số 18y tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y diện tích 1.047 m2, thửa 17x tờ bản đồ địa chính số 5 nay tương ứng thửa 131x tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y diện tích 444 m2 đu có nguồn gốc đất do hợp tác xã giao khoán cho hộ gia đình. Do đó Hội đồng xét xử xác định ba thửa đất này là tài sản chung cuả hộ gia đình gồm có vợ chồng bà Nguyễn T, ông Nguyễn Pvà 07 người con: anh Nguyễn V, chị Nguyễn A, chị Nguyễn B, anh Nguyễn C, chị Nguyễn D, chị Nguyễn E, anh Nguyễn F. Riêng chị Nguyễn K nhập hộ khẩu từ tháng 12 năm 1994, nhưng bà Nguyễn T đồng ý chị cũng là thành viên trong hộ có quyền sử dụng đất, nên Hội đồng xét xử chấp nhận có 10 thành viên trong hộ gia đình bà T có quyền sử dụng đất.Tổng diện tích đất là 2.798 m2, chia bình quân mỗi người ông P, bà T và các con: anh V, chị A, chị B, anh C, chị D, chị E, anh F, chị K được nhận 2.798 m2 : 10= 279,8 m2. Ông Nguyễn P đã chết ngày 20 tháng 3 năm 2004, không để lại di chúc. Phần của ông P được chia thừa kế theo pháp luật cho bà T và 08 người con, mỗi người được: 279,8m2 : 9= 31,08 m2. Như vậy kỷ phần thừa kế và phần tài sản chung mà bà T và 08 người con mỗi người được nhận là 279,8 m2 + 31,08= 310,88 m2, trị giá thành tiền là: 310,88 m2 x 70.000 đồng/m2 = 21.761.000 đồng.

[3] Chị Nguyễn A, chị Nguyễn B, anh Nguyễn C, chị Nguyễn D, chị Nguyễn E, chị Nguyễn K đồng ý tặng cho phần cuả họ được nhận cho bà Nguyễn T, bà T đồng ý nhận, đây là sự thoả thuận tự nguyện không trái pháp luật, nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Như vậy phần của bà Nguyễn T được nhận là 7 phần x 310,88 m2= 2.176,16 m2. Bà Nguyễn T được giao và có quyền sử dụng hai thửa 14x tờ bản đồ địa chính số 3 nay tương ứng thửa số 18x tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y diện tích 1.307 m2, thửa 14y tờ bản đồ địa chính số 3 tương ứng thửa số 18y tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y diện tích 1.047 m2, tổng diện tích hai thửa là 2.354 m2. Phần diện tích trội hơn (177,84 m2) sẽ được bà hoàn trả bằng tiền cho anh V và anh F.

[4] Anh Nguyễn V và anh Nguyễn F được bà T đồng ý giao cho mỗi người một nửa thửa 17x tờ bản đồ địa chính số 5 nay tương ứng thửa 131x tờ bản đồ địa chính số 4 phường Phước Mỹ diện tích 444 m2 . Chia phần anh V và anh F mỗi người được nhận 222 m2 x 70.000 đồng = 15.540.000 đồng. Do anh F yêu cầu nhận bằng tiền nên anh Nguyễn V được nhận và có quyền sử dụng thửa 17x tờ bản đồ địa chính số 5, nay tương ứng thửa 131x tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y diện tích 444 m2 và có nghĩa vụ hoàn trả lại cho anh Nguyễn F 222 m2 x 70.000 đồng/m2= 15.540.000 đồng. Bà Nguyễn T sẽ trả cho anh Nguyễn V và Nguyễn F mỗi người phần còn thiếu so với phần chia tài sản chung và kỷ phần thừa kế được nhận là 21.761.000 đồng, cụ thể: 21.761.000 đồng- 15.540.000 đồng= 6.221.000 đồng.

Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, trích lục các thửa đất là 4.760.000 đồng, bà T đồng ý chịu, bà đã nộp đủ các chi phí này.

Về án phí DSST: Bà T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm do là người cao tuổi.

Anh V và anh F mỗi người phải chịu án phí dân sự sơ thẩm: 21.761.000 đồng x 5%= 1.088.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào: Khoản 2, khoản 5 điều 26, điểm a khoản 1 điều 35, điều 266 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điều 109, điều 467 Bộ luật Dân sự 2005; điều 212, 219, điều 649, điều 650 Bộ luật Dân sự 2015; Nghị quyết 326 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện cuả nguyên đơn về việc chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình và chia thừa kế theo quy định của pháp luật.

Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của chị Nguyễn A, chị Nguyễn B, anh Nguyễn C, chị Nguyễn D, chị Nguyễn E, chị Nguyễn K đồng ý tặng cho phần tài sản được chia cho bà Nguyễn T.

1. Bà Nguyễn T được chia và có quyền sử dụng thửa đất 14x tờ bản đồ địa chính số 3 nay là thửa số 18x (đã chỉnh lý) tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y diện tích 1.307 m2, thửa 14y tờ bản đồ địa chính số 3 nay là thửa số 18y (đã chỉnh lý) tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y diện tích 1.047 m2.

Tứ cận thửa đất 14x tờ bản đồ địa chính số 3 nay tương ứng thửa số 18x (đã chỉnh lý) tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y: …………………………………………..

Tứ cận thửa đất 14y tờ bản đồ địa chính số 3 nay tương ứng thửa số 18y (đã chỉnh lý) tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y: ……………………………………..

2. Anh Nguyễn V được chia và có quyền sử dụng thửa đất 17x tờ bản đồ địa chính số 5 phường Phước Mỹ, nay tương ứng thửa 131x tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y diện tích 444 m2.

Tứ cận thửa đất thửa đất 17x tờ bản đồ địa chính số 5 phường Y, nay tương ứng thửa 131x tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y………………….

Bà Nguyễn T và anh Nguyễn V có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký biến động đất đai.

3. Bà Nguyễn T có nghiã vụ hoàn lại cho anh Nguyễn F 6.221.000 (sáu triệu hai trăm hai mươi mốt ngàn) đồng, hoàn lại cho anh Nguyễn V 6.221.000 (sáu triệu hai trăm hai mươi mốt ngàn) đồng.

Anh Nguyễn V có nghĩa vụ hoàn lại cho anh Nguyễn F 15.540.000 (mười lăm triệu năm trăm bốn mươi ngàn) đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Về án phí: Bà Nguyễn T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại cho bà tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0017374 ngày 08/8/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P.

Anh Nguyễn F và anh Nguyễn V mỗi người phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 1.088.000 đồng.

Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt bà Nguyễn T- nguyên đơn đồng thời là người đại diện theo ủy quyền cuả những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, có mặt anh Nguyễn C. Quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với anh Nguyễn V vắng mặt, quyền kháng cáo hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án.

“Trường hợp bản án, quyết định, được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.”

(Đính kèm bản án Trích lục bản đồ địa chính các thửa đất: thửa số 18x (đã chỉnh lý) tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y, thửa số 18y (đã chỉnh lý) tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y; Trích sao bản đồ điạ chính thửa số 131x- tách từ thửa 297- tờ bản đồ địa chính số 4 phường Y)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

797
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2020/DS-ST ngày 19/06/2020 về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình và chia thừa kế theo pháp luật

Số hiệu:07/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về