Bản án 07/2020/DS-ST ngày 03/07/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHI SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 07/2020/DS-ST NGÀY 03/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 09/2020/TLST - DS ngày 02 tháng 3 năm 2020; về việc: “Tranh chấp về hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2020/QĐXXST-DS ngày 18 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: bà Phạm Thị Ch - Sinh năm: 1959

- Bị đơn: Anh Lê NgocTH - Sinh năm: 1982 Địa chỉ: Thôn TS, xã TS, thị xã NS, tỉnh Thanh Hóa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Phạm Thị Ch trình bày:

Bà và anh Lê Ngọc TH là người cùng xã, có quen biết nhau nhiều năm nên vào ngày 16/8/2018, anhTH có nhờ bà đi vay giúp số tiền 20 triệu đồng và hẹn 03 ngày sau sẽ trả lại. Bà có đi vay của ông Đinh Công Quyền là người cùng thôn số tiền trên, do vay nóng nên ông Quyền không lấy lãi. Đến ngày 01/9/2018, anhTH lại tiếp tục nhờ bà đi vay hộ số tiền 20 triệu và hẹn 10 ngày sẽ trả. Bà có đi vay của ông Nguyễn Duy Trữ cũng là người cùng thôn số tiền trên về đưa cho anhTH, số tiền này bà vay với mức lãi xuất là 2%/ tháng. Đến ngày 23/9/2018 thì anhTH có trả cho bà 10 triệu tiền gốc và trả lãi 07 tháng là 2.800.000đ. kể từ thời điểm đó cho đến nay anhTH không tra số tiền gốc còn lại là 30 triệu còn tiền lãi thì anhTH mới trả đến tháng 5/2019. Nay bà đề nghị Tòa án buộc anh Lê Ngọc TH trả cho bà số tiền nợ gốc 30 triệu và trả lãi từ tháng 5/2019 cho tới khi anh Thaỏ trả hết số tiền nợ gốc cho bà theo quy định của pháp luật hiện hành.

Tại bản tự khai cũng như tại phiên hòa giải anhTH trình bày: Bản thân anh thừa nhận vào khoảng thời gian trên anh có nhờ bà Ch đi vay hộ cho anh hai lần với tổng số tiền vay là 40 triệu đồng. Anh đã trả cho bà Ch được 10 triệu và tiền lãi từ ngày vay cho đến tháng 5/2019 mới thôi. Hiện tại anh còn nợ bà Ch số tiền 30 triệu đồng. nay bà Ch làm đơn khởi kiện anh, anh chấp nhận trả nợ cho bà nhưng do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, con nhỏ thường xuyên đau ốm, làm ăn không thuận lợi nên anh chỉ có thể trả cho bà Ch mỗi tháng 03 triệu đồng cho tới khi hết số tiền trên còn tiền lãi thì anh xin bà Ch.

Tại phiên tòa bà Ch vẫn giữ nguyên quan điểm trong đơn khởi kiện, bản thân bà cũng đi vay hộ số tiền trên cho anhTH, hiện tại người cho vay tiền thường xuyên sang nhà đòi bà trả nợ, gây sức ép tâm lý cho bà, điều kiện kinh tế gia đình bà rất khó khăn, thuộc trường hợp hộ nghèo trong xã hơn nữa bà đã hết tuổi lao động, thường xuyên ốm đau nên không có công việc làm để có thu nhập vì vậy bà đề nghị HĐXX tuyên buộc anhTH phải trả lại số tiền 30 triệu và tiền lãi theo quy định để bà về trả nợ cho ông Quyền và Trữ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Phạm Thị Ch làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án buộc anh Lê Ngọc TH trả nợ cho bà trả nợ số tiền vay là 30 triệu đồng và tiền lãi theo quy định pháp luật xét thấy nội dung đơn khởi kiện thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTDS nên TAND huyện Tĩnh Gia nay là TAND thị xã Nghi Sơn thụ lý vụ án về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Bị đơn anh Lê Ngọc TH có nơi cư trú tại thôn Trung Sơn, xã Thanh Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về yêu cầu của nguyên đơn:

[2.1] Về yêu cầu đòi nợ gốc: Các bên đương sự đều thống nhất vào ngày 16/8/2019 và 01/9/2019, bà Ch có đi vay hộ cho anh Lê Ngọc TH tổng số tiền 40 triệu đồng. Đến ngày 23/9/2018, anhTH đã trả được cho bà 10 triệu tiền gốc và tiền lãi của số tiền cho vay đến tháng 5/2019. Tuy anhTH không viết giấy nhận nợ cho bà Ch nhưng tại bản tự khai cũng như lời trình bày của anhTH tại TAND thị xã Nghi Sơn cũng như các biên bản làm việc của UBND xã Thanh Sơn, anhTH đều thừa nhận tính đến thời điểm hiện nay anh còn nợ bà Ch số tiền 30 triệu đồng. Đây là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của BLTTDS. Vì vậy đây là cơ sở là nguồn chứng cứ xác định anh Lê Ngọc TH còn nợ bà Phạm Thị Ch số tiền 30 triệu đồng vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 463, khoản 1 Điều 466 của Bộ luật dân sự, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Về phương án trả nợ: Trên cơ sở trình bày của các đương sự tại phiên tòa cũng như tại phiên hòa giải HĐXX nhận thấy: Thời điểm hiện nay bà Ch đã hết tuổi lao động, gia đình thuộc hộ nghèo trong xã, bản thân không có nguồn thu nhập, bản thân anhTH tuổi đời còn trẻ, đang ở tuổi lao động, gia đình có mở hàng ăn, có nguồn thu nhập ổn định nên việc cần buộc anhTH phải trả nợ số tiền 30 triệu đồng cho bà Ch là cần thiết vì vậy HĐXX chấp nhận đề nghị của bà Ch và không chấp nhận yêu cầu của anhTH là có căn cứ và phù hợp với điều kiện thực tế của các đương sự.

[2.2] Về số tiền lãi: Việc bà Ch đề nghị HĐXX, buộc anhTH phải trả lãi trên số tiền nợ gốc là 30 triệu theo quy định lãi suất quá hạn của pháp luật là có căn cứ và đúng theo quy định tại Điều 357 BLDS cần buộc anhTH phải trả lãi xuất trên khoản vây của bà Ch là đúng.

[4] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự có giá ngạch theo quy định của pháp luật. Buộc anh Lê Ngọc TH phải nộp 1.848.000đ án phí có giá ngạch theo quy định tại Nghị quyết 326 của BTVQH.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 357, Điều 463, khoản 1 Điều 466; Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 264, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án và điểm b tiểu mục 1.3 mục 1 phần 2 Danh mục án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc anh Lê Ngọc TH phải trả cho bà Phạm Thị Ch số tiền nợ gốc 30.000.000đ.

+ Anh Lê Ngọc TH phải trả số tiền nợ lãi theo quy định của pháp luật từ tháng 05/2019 cho tới ngày 30/6/2020 là: 14 tháng x 30 triệu x 1,66 = 6.972.000đ.

Tổng số tiền anhTH phải trả cho bà Ch là: 36.972.000đ 2. Kể từ ngày bà Ch có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, anh Lê Ngọc TH còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy đinh khác.

3. Về án phí:

- Bà Phạm Thị Ch không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm - Anh Lê Ngọc TH phải nộp 1.848.000đ tiền án phí dân sự có giá ngạch.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, bị đơn. Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử lại theo trình tự phúc thẩm.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2020/DS-ST ngày 03/07/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:07/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tĩnh Gia (cũ) - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 03/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về