Bản án 07/2019/HSST ngày 28/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Q, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 07/2019/HSST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2019/TLST - HS ngày 23 tháng 01 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2019/QĐXXST - HS ngày 18 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo.

Họ và tên: Lò Văn V, tên gọi khác: Không; sinh năm 1968; Nơi ĐKHKTT: Bản N, xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt: Trình độ văn hóa: Lớp 10/12; Đảng phái đoàn thể: Không; Dân tộc: Thái; Con ông: Lò Văn S (đã chết) và bà Lò Thị N; Bị cáo có là Lò Thị C và có 02 con, con lớn nhất 24 tuổi, con nhỏ nhất 18 tuổi.

Tiền án: Tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/10/2018 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 7 giờ 45 phút ngày 24/10/2018 Công an huyện Q làm nhiệm vụ tại bản N, xã M, huyện Q phát hiện bắt quả tang Lò Văn V trú tại bản N có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ: 01 bọc nilon bên trong chứa 03 gói nilon màu trắng bên trong mỗi gói có chất bột, cục màu trắng nghi là heroine.

Ngày 24/10/2018 Cơ quan điều tra Công an huyện Q cân tịnh 03 gói chất bột, cục màu trắng thu giữ của Lò Văn V; gói thứ nhất có trọng lượng gói 0,03 gam lấy toàn bộ gửi giám định ký hiệu V1. Gói thứ hai có trọng lượng gói 0,05 gam lấy toàn bộ gửi giám định ký hiệu V2. Gói thứ ba có trọng lượng gói 0,09 gam lấy toàn bộ gửi giám định ký hiệu V3.

- Tại bản kết luận giám định số: 1118/KL - MT ngày 31/10/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận “Mẫu gửi giám định ký hiệu V1 đến V3 là chất ma túy, loại chất Heroine, khối lượng chất ma túy thu giữ là 0,17 gam”. Không hoàn lại mẫu gửi giám định.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Khoảng 07 giờ ngày 23/10/2018 Lò Văn V đi xe buýt ra huyện T tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Đi đến ngã ba Chiềng Pấc Vấn xuống xe và bắt xe buýt lên bản T, xã T, huyện T vào khoảng 09 giờ Vấn đến nơi, V vào trong bản T thì gặp một người phụ nữ (V không biết họ tên, địa chỉ) đi ngược chiều với V, V hỏi người phụ nữ đó “Chị có biết ở đây có ai ma túy bán không?” người phụ nữ đó trả lời “Có, lấy bao nhiêu?” V nói “Lấy hai trăm nghìn đồng” người đó nói “Muốn lấy thì đợi một lát”, V đứng đợi còn người phụ nữ đi vào trong bản, khoảng 15 phút sau thì người phụ nữ quay lại chỗ V, gặp V người phụ nữ đó nói “Tiền đâu” V lấy 200.000đ gồm hai tờ mệnh giá 100.000đ từ túi quần đưa cho người phụ nữ, người phụ nữ đó nhận tiền và lấy túi vải đeo trên người 03 gói ma túy đều được gói bằng nilon màu trắng đưa cho V, V nhận lấy ma túy và cất vào túi quần đang mặc rồi ra về trên đường từ bản T ra quốc lộ 6A V vào bụi cây san lấy một ít và sử dụng bằng hình thức chích, số ma túy còn lại V gói lại cất vào túi quần ban đầu rồi ra quốc lộ đón xe buýt về nhà. Về đến nhà V bỏ số ma túy ra và lấy 01 mảnh nilon màu trắng gói cả 03 gói ma túy lại, cất giấu ma túy vào trong hộp đựng đồ tiêm gia súc của gia đình và cất vào trong bếp với mục đích để sử dụng dần cho bản thân. Ngày 24/10/2018 Vấn đang ở nhà thì bị Tổ công tác Công an huyện Q yêu cầu kiểm tra ma túy thì V tự giác lấy 03 gói ma túy ra nộp. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lò Văn V cùng vật chứng để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số: 08/KSĐT - MT ngày 23/01/2019 của Viện kiểm sát nhân huyện Q, tỉnh Sơn La đã truy tố Lò Văn V về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lò Văn V phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Đề nghị Hội đồng xét xử; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn V 18 (Mười tám) đến 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Miễn phạt tiền đối với bị cáo.

Vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS.

Tiêu hủy 01 phong bì thư đựng 02 mảnh ni lon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ, đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa về thời gian, địa điểm và diễn biến sự việc phù hợp với các căn cứ khác: Biên bản bắt người phạm tội quả tang và vật chứng thu giữ. Kết luận giám định “Khối lượng chất ma túy thu giữ là 0,17 gam”. Bị cáo khai mục đích mua để sử dụng cho bản thân.

[3] Như vậy: Có đủ căn cứ kết luận: Ngày 24/10/2018 Công an huyện Quỳnh Nhai bắt quả tang Lò Văn V, sinh năm 1968 đăng ký hộ khẩu thường trú tại Bản N, xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua, sử dụng chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì nhu cầu sử dụng của bản thân, bị cáo cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm tù. Do vậy; bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật, nhằm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo, để bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật, để răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy nói chung tại địa phương.

[5] Xét về nhân thân của bị cáo: Năm 2011 bị Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Sơn La tuyên phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 70 Bộ luật tố tụng hình sự, đương nhiên được xóa án tích. Lẽ ra bị cáo phải lấy đó làm bài học để rèn luyện bản thân, trở thành công dân tốt cho gia đình và xã hội.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, là tình tiết giảm trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[7] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS. Qua xác minh, bị cáo hiện nay đang sống vào nghề trồng trọt, không có tài sản riêng có giá trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo V khai là mua với 01 người phụ nữ tại bản T, xã T, huyện T vào ngày 23/10/2018 nhưng V không biết họ tên và địa chỉ cụ thể. Nên Cơ quan điều tra Công an huyện Q không có cơ sở điều tra xác minh. Do đó buộc bị cáo Lò Văn V phải chịu trách nhiệm toàn bộ số Heroine thu giữ nêu trên.

[9] Vật chứng vụ án: Tiêu hủy 01 phong bì thư: Đựng 04 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Lò Văn V phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn V 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 24/10/2018.

Miễn hình phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo.

2/ Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên tiêu hủy: 01 phong bì thư: Đựng 04 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc,

(Theo biên bản bàn giao vật chứng số 13/2019 ngày 28/01/2019 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Nhai).

3/ Về án phí: Áp dụng điều 135 BLTTHS và Điều 21, 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án - Buộc bị cáo Lò Văn V phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 28/02/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HSST ngày 28/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:07/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Nhai - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về