Bản án 07/2019/HS-ST ngày 18/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 07/2019/HS-ST NGÀY 18/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Công S - sinh ngày 12 tháng 7 năm 1985, tại xã M, huyện Y, tỉnh N. Nơi cư trú: Xóm 8, xã M, huyện Y, tỉnh N; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hoá (học vấn) 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Công L và bà Nguyễn Thị H; có vợ: Ngô Thị H và 03 con; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tại bản án số 253/2012/HSST ngày 07/9/2012. Chấp hành xong bản án ngày 27/3/2013. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2018 đến nay. Có mặt

2. Họ và tên: Nguyễn Văn Đ - sinh ngày 10 tháng 02 năm 1992, tại xã M, huyện Y, tỉnh N. Nơi cư trú: Xóm 10, xã M, huyện Y, tỉnh N; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hoá (học vấn) 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị T; có vợ: Phan Thị N và 02 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2018 đến nay. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn H – sinh năm 1975. Trú tại: Xóm T, xã C, huyện Y, tỉnh N.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Phan Thị N – sinh năm 1992. Trú tại: Xóm 10, xã M, huyện Y, tỉnh N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 25/9/2018, Nguyễn Văn Đ gọi điện cho Nguyễn Công S hỏi “anh đang làm chi đó”, S trả lời “anh đang ở nhà”, Nguyễn Văn Đ hỏi tiếp “anh có tiền không” (ý hỏi có tiền để đi mua mà túy về sử dụng không) thì S trả lời là “Có”, Nguyễn Văn Đ nói tiếp “Rứa anh ở nhà rồi em xuống”. Sau đó Nguyễn Văn Đ điều khiển chiếc xe máy nhãn hiệu WAVE ANPHA màu đen, biển kiểm soát 37N5-1347 đến nhà Nguyễn Công S ở xóm 10, xã M. Đến nơi Đ thấy S đang đứng ở ngoài ngõ nên cả hai cùng chở nhau đi. Trên đường đi Nguyễn Văn Đ hỏi Nguyễn Công S “dừ ta đi mô” thì S trả lời là “đi xuống xã C”. Khi đi đến cổng nhà thờ giáo xứ N, S nói Đ xuống xe chờ còn S điều khiển xe máy đến nhà một người tên V ở xóm Đ, xã C. Khi gặp người tên V, Nguyễn Công S đưa cho người này 200.000 đồng và nhận một gói nhỏ bên ngoài bọc giấy trắng, bên trong có chứa một ít chất bột màu trắng. Sau khi mua xong Nguyễn Công S quay lại chở Nguyễn Văn Đ đến khu vực kênh N3 thuộc xóm Đ, xã C để sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt giữ.

Trong ngày 25/9/2018, cơ quan điều tra Công an huyện Yên Thành đã mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại (có sự chứng kiến của cán bộ kiểm sát huyện Yên Thành và các bị can). Theo kết quả thì toàn bộ vật chứng 01 gói nhỏ bên ngoài bọc giấy trắng bên trong có chứa nhiều hạt tinh thể màu trắng (nghi là ma túy) sau khi loại bỏ bao bì số chất bột màu trắng có trọng lượng là 0,115 gam. Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Thành đã lấy 0,035 gam để giám định còn lại 0,08 gam đã niêm phong lại.

Theo kết luận giám định số: 1112/KL-PC09 ngày 28 tháng 9 năm 2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An thì chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Công S và Nguyễn Văn Đ gửi tới giám định là ma túy (Heroine) có khối lượng 0,115 gam.

Cáo trạng số: 14/VKS-HS ngày 04/01/2019 của VKSND huyện Yên Thành, Nghệ An truy tố các bị can Nguyễn Công S và Nguyễn Văn Đ về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xử lý các bị cáo như sau:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Công S từ 12 đến 15 tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 12 đến 15 tháng tù.

- Vật chứng vụ án: Kiểm sát viên đề nghị xử lý theo quy định.

- Về án phí: Buộc các bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát, các bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ buộc tội: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa công khai bị cáo Nguyễn Công S, Nguyễn Văn Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Trên cơ sở lời khai nhận của các bị cáo, lời khai của người làm chứng, biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng thu giữ được và kết luận giám định là hoàn toàn phù hợp với nhau. Cơ quan điều tra, điều tra viên đã tiến hành tố tụng điều tra như lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, ra các quyết định, lấy lời khai, hỏi cung bị can, trưng cầu giám định, kết luận giám định theo đúng các quy định của pháp luật. Xét thấy đã có đủ căn cứ kết luận Nguyễn Công S, Nguyễn Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An đã quy kết.

Ma túy (Heroine) mà Nguyễn Công S, Nguyễn Văn Đ tàng trữ có khối lượng 0,115 gam, chính vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành tuy tố bị cáo theo điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ.

[2] Đây là một vụ án nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo không những xâm phạm chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma túy, trực tiếp là hoạt động tàng trữ chất ma túy mà còn xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Vụ án đồng phạm mang tính chất giản đơn nên vai trò, vị trí, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và mức độ phạm tội của từng bị cáo khác nhau, do đó cần phân hóa để xử lý cho phù hợp.

Đối với bị cáo Nguyễn Công S, là người tích cực phạm tội, trực tiếp mua ma túy để cả hai sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe cũng như ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, xã hội nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi đến cùng. Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 07/9/2012 bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Sau khi chấp hành xong bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo để phục vụ cho nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy trên địa bàn, địa phương. Song, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải cần coi đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần trách nhiệm cho bị cáo nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Đối với Nguyễn Văn Đ, bị cáo biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật cũng như tác hại của việc sử dụng ma túy, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện tội phạm đến cùng. Bị cáo đã rủ rê, lôi kéo, gọi điện thoại và dùng phương tiện chở Nguyễn Công S đi mua ma túy để cùng nhau sử dụng. Do vậy cũng cần xử lý nghiêm. Bản thân bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt. Qúa trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải cần coi đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình cho bị cáo.

Vụ án có hai bị cáo tham gia thực hiện hành vi phạm tội nhưng không có sự câu kết chặt chẽ, các bị cáo cùng tham gia một thời điểm. Bị cáo Nguyễn Công S có vai trò cao hơn, do đó cần áp dụng mức hình phạt cao hơn bị cáo Nguyễn Văn Đ.

[3] Hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo là người mắc nghiện ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[4] Đối với người đàn ông tên V mà Nguyễn Công S khai đã bán ma túy cho S. Công an huyện Yên Thành tiến hành điều tra nhưng chưa có kết quả, khi nào có sẽ xử lý sau. Đối với người phụ nữ Phan Thị N (Vợ bị cáo Nguyễn Văn Đ). Khi bị cáo Đương sử dụng xe để đi mua ma túy chị N không biết, do đó không có cơ sở để xử lý.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Vật chứng là 01 chiếc xe máy xe máy nhãn hiệu WAVE ANPHA màu đen, biển kiểm soát 37N5-1347 xác định được là của chị Phan Thị N, cơ quan điều tra Công an huyện Yên Thành đã trả lại cho chủ sở hữu là đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Vật chứng là 0,115 gam ma túy (Heroine), sau khi mở niêm phong lấy 0,035 gam gửi đi giám định còn lại 0,08 gam đã niêm phong trong một bì thư của công an huyện Yên Thành. Xét vật chứng là ma túy (Heroine) là loại Nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

[6] Về án phí: Buộc các bị cáo phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Công S, Nguyễn Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Công S 15 (Mười lăm) tháng tù.

Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo ngày 25/9/2018.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Đ 12 (Mười hai) tháng tù.

Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo ngày 25/9/2018.

Hội đồng xét xử còn áp dụng tạm giam 45 ngày đối với các bị cáo Nguyễn Công S, Nguyễn Văn Đ để đảm bảo cho việc thi hành án.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy của Nguyễn Công S, Nguyễn Văn Đ 0,08 g (Không phẩy không tám gam) ma túy (Heroine) được niêm phong trong một bì thư của Công an huyện Yên Thành. Vật chứng hiện chuyển giao cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị Quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án. Buộc Nguyễn Công S, Nguyễn Văn Đ mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo lên Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo lên Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HS-ST ngày 18/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:07/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về