Bản án 07/2019/HS-ST ngày 14/02/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 07/2019/HS-ST NGÀY 14/02/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnhĐiện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 10/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 01năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn Th; tên gọi khác: Không. Sinh ngày 02/9/1986, tại: Xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Bản L, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 3; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn Đ, sinh năm 1963 và con bà Lò Thị B, sinh năm 1963; bịcáo chưa có vợ, con; tiền sự: Không, tiền án: Không; nhân thân: Bị cáo đã bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc vào năm 2015 và bị xét xử một lần tại Bản án số: 06/2011/HSST ngày 16/11/2011 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo tuyên phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; bị bắt tạm giữ từ ngày 04/12/2018, tạm giam ngày 07/12/2018 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lò Thị B, sinh năm: 1963; nơi cư trú: Bản Lé, xã Quài Tở, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên, (Có mặt).

* Người có nghĩa vụ liên quan:

1. Họ và tên: Hạng A D, sinh năm 1972: nơi cư trú: Bản P, xã M, huyện T, tỉnh Sơn La, (Vắng mặt).

2. Họ và tên: Lò Thị S, sinh năm 1985: nơi cư trú: Bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên, (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ sáng ngày 04/12/2018 bị cáo Lò Văn Th đi từ nhà ở Bản L, xã Q, huyện T, đến nhà Lò Thị S trú tại: Bản C, xã Q, huyện T để mua Heroine. Tại nhà của S qua trao đổi bị cáo Th đã mua được của S 02 gói Heroine được gói bằng mảnh túi nilon màu trắng, với giá 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng), việc trao đổi, mua bán ma túy chỉ có S và bị cáo biết với nhau ngoài ra không có ai biết và tham gia cùng. Mua được ma túy, bị cáo cất ma túy vào túi quần bên trái đi về. Khi về đến nhà bị cáo lấy ra một ít Heroine sử dụng bằng hình thức trích, lấy dao lam có sẵn trong nhà ra chia 02 gói Heroine ra thành 06 gói nhỏ cho vào một túi nilon màu trắng, cất giấu vào đầu giường ngủ của bị cáo, với mục đích để sử dụng và bán lẻ kiếm lời. Trong ngày 04/12/2018, tại nhà của mình bị cáo đã 02 lần trực tiếp bán Heroine cho Hạng A D, sinh năm 1972: trú tại bản P, xã M, huyện T, tỉnh Sơn La. Cụ thể: Vào khoảng 09 giờ bị cáo bán cho D 01 gói Heroine với giá 50.000đ và 14 giờ cùng ngày bị cáo lại bán cho D 01 gói Heroine với giá 40.000đ. Đến 14 giờ 30 phút, ngày 04/12/2018 bị Tổ công tác - Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang, thu giữ của bị cáo 04 gói Heroine còn lại, có khối lượng là 0,19 gam.

Tại bản Kết luận giám định số: 143/GĐ-PC09 ngày 19/12/2018 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của bị cáo Lò Văn Th gửi giám định là ma tuý: Loại Heroine. Khối lượng vật chứng thu giữ của bị cáo Lò Văn Th là 0,19 gam”.

Tại Cơ quan Điều tra và phiên tòa hôm nay bị cáo Lò Văn Th khai nhận: Ngày 04/12/2018 bị cáo mua 02 gói Heroine với giá 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng) của một người phụ nữ tên là S, trú tại: Bản C, xã Q, huyện T nhằm mục đích để sử dụng và bán lẻ. Mua được Heroine, bị cáo lấy ra một ít Heroine sử dụng bằng hình thức trích, sau đó chia 02 gói Heroine ra thành 06 gói nhỏ. Trong ngày 04/12/2018, tại nhà của mình bị cáo bán Heroine cho Hạng A D 02 lần: Bán 01 gói Heroine vào hồi 09 giờ với giá 50.000đ, 01 gói Heroine vào hồi 14 giờ. Đến 14 giờ 30 phút, ngày 04/12/2018 bị Tổ công tác, Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang, thu giữ của bị cáo 04 gói Heroine còn lại.

Tại bản Cáo trạng số: 10/CT- VKS-TG ngày 23 tháng 01 năm 2019, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Lò Văn Th về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo Điểm b Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại đơn đề nghị và phiên tòa bà Lò Thị B trình bày: Vào ngày 03/12/2018 bà Lò Thị B có đưa cho con trai là Lò Văn Th số tiền 1.825.000đ (một triệu tám trăm hai mươi lăm nghìn đồng) để ngày hôm sau nhờ Th đưa đi khám chữa bệnh vì bà B bị khối u ở gáy. Nhưng đến ngày 04/12/2008 Th bị Công an bắt quả tang về việc mua bán trái phép chất ma túy, Th đã tiêu hết 600.000đ, còn lại 1.225.000đ bị Công tạm giữ; số tiền trên không liên quan đến hành vi phạm tội của Th, bà Lò Thị B đề nghị Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo trả lại số tiền trên cho bà theo quy định của pháp luật.

Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,12 gam Heroine vật chứng còn lại thu giữ của bị cáo, 01 túi nilon màu trắng, 04 mảnh nilon màu trắng và 01 vỏ gói niêm phong dùng để niêm phong vật chứng. Đối với số tiền 1.315.000đ (một triệu ba trăm mươi lăm nghìn đồng) Công an đã tạm giữ khi bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo vào ngày 04/12/2018, trong đó có 90.000đ (chín mươi nghìn đồng) là tiền bị cáo bán hai lần 02 gói Heroine cho Hạng A D mà có đề nghị tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước; số tiền còn lại 1.225.000đ (một triệu hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng) là tiền của mẹ đẻ bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, nên đề nghị trả lại cho bà Lò Thị B. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản cáo trạng và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và các Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan đã thực hiện đều hợp pháp và được chấp nhận.

[2] Về hành vi của bị cáo: Ngày 04/12/2018 bị cáo Lò Văn Th mua 02 gói Heroine với giá 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng) của Lò Thị S, trú tại Bản C, xã Q, huyện T nhằm mục đích để sử dụng và bán lẻ. Sau khi mua được Heroine bị cáo đã sử dụng một ít và chia thành 06 gói nhỏ Heroine. Trong ngày 04/12/2018, tại nhà của mình bị cáo đã bán Heroine 02 lần cho Hạng A D: Lần thứ nhất bán 01 gói Heroine với giá 50.000đ vào hồi 09 giờ, lần thứ hai bán 01 gói Heroine với giá 40.000đ vào hồi 14 giờ. Đến 14 giờ 30 phút, cùng ngày 04/12/2018 bị Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang, thu giữ 04 gói Heroine còn lại. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về khối lượng Heroine là 0,19 gam đã bị thu giữ. Vì vậy Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Lò Văn Th phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo trực tiếp tiếp tay cho những người chuyên mua bán trái phép các chất ma túy tồn tại và phát triển; là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm .... làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Tuần Giáo nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Tội phạm mà bị cáo vi phạm là tội phạm rất nghiêm trọng. Vì vậy hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, mới có tác dụng phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; tại hồ sơ vụ án thể hiện bố đẻ của bị cáo được Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam tặng Kỷ niệm chương vì giai cấp Nông dân Việt Nam, nhưng không được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, nên Hội đồng xét xử không xem xét. Bị cáo nhập ngũ năm2005 thuộc Trung đoàn 82 Điện B, đến 2006 xuất ngũ về địa phương sinh sống; ngày 16/11/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo tuyên phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, đến nay đã được xóa án tích; năm 2015 bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo đã có thời gian được rèn luyện trong quân ngũ, được giáo dục tại Cơ sở giáo dục bắt buộc, trại giam, lẽ ra phải lấy đó làm bài học sống tốt hơn, có ích cho gia đình và xã hội. Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục bị cáo thành người lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật, đồng thời giúp bị cáo cai nghiện chất ma túy.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xét thấy điều kiện kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Thu nhập của bị cáo chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp, nên không có khả năng thi hành. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù và không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, nên cần chấp nhận.

[7] Đối với Lò Thị S, trú tại Bản C, xã Q, huyện T, là người mà bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo vào ngày 04/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Tuần Giáo, đã triệu tập để đấu tranh làm rõ, nhưng S không thừa nhận đã bán Heroine cho bị cáo. Ngoài lời khai của bị cáo ra không có tài liệu nào khác chứng minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở kết luận, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Hạng A D, qua điều tra cho thấy, D chỉ là người nghiện đến mua ma túy của bị cáo về để sử dụng, vi phạm vào pháp luật hành chính. Cơ quan điều tra đã raquyết định xử lý vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh Cáo là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Vật chứng vụ án: Đối với 01 phong bì màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,12 gam Heroine còn lại thu giữ của bị cáo cần tịch thu tiêu hủy, 01 túi nilon màu trắng, 04 mảnh nilon màu trắng và 01 vỏ gói niêm phong dùng để niêm phong vật chứng. Đối với số tiền 1.315.000đ (một triệu ba trăm mươi lăm nghìn đồng) Công an đã tạm giữ khi bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo vào ngày 04/12/2018, trong đó có 90.000đ (chín mươi nghìn đồng) là tiền bị cáo bán hai lần 02 gói Heroine cho Hạng A D mà có, cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước; số tiền còn lại 1.225.000đ (một triệu hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng) là tiền của mẹ đẻ bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bà Lò Thị B, theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[9] Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và bị cáo đã có đơn xin miễn án phí; theo quy định tại Khoản 2 Điều136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn Th phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn Th 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 04/12/2018.

2. Căn cứ vào Điểm b, Điểm c Khoản 1 và Khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điểm a, Điểm b Khoản 2 và Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,12 gam Heroine vật chứng còn lại thu giữ của bị cáo, 01 túi nilon màu trắng, 04 mảnh nilon màu trắng và 01 vỏ gói niêm phong dùng để niêm phong vật chứng tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 90.000đ (chín mươi nghìn đồng); trả lại cho bà Lò Thị B số tiền 1.225.000đ (một triệu hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo B bản giao nhận vật chứng ngày 29/01/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

3. Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về án phí: Miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4. Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (14/02/2019). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lò Thị B có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (14/02/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HS-ST ngày 14/02/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:07/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về