Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 29/03/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ C, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 07/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2019 VỀ LY HÔN 

Ngày 29 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 06/2019/TLST - HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2019 về : “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2019/QĐXX-ST ngày 15 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hồ T, sinh năm 1992; địa chỉ: Tổ 14 B, khu phố 6, phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương; có mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm S, sinh năm 1986; địa chỉ: Tổ 14 B, khu phố 6, phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 18/12/2018, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa; nguyên đơn chị Hồ T trình bày:

Chị và anh Phạm S chung sống với nhau từ năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 147, do Ủy ban nhân phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương cấp ngày 24/10/2017. Thời gian đầu, chị và anh S chung sống hạnh phúc. Đến năm 2018, giữa chị và anh S bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh S thường xuyên cờ bạc dẫn đến nợ nần, từ đó dẫn đến bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, anh S đánh đập chị khoảng 04 đến 05 lần, lần anh Sang đánh đập chị gần nhất là vào tháng 11/2018, tại nơi chị làm việc là Công ty TNHH D. Khi sự việc xảy ra, Công an phường P, thị xã C, tỉnh Bình Dương triệu tập chị và anh S đến trụ sở Công an phường P để làm việc. Hiện chị và anh S đã ly thân từ tháng 7/2018 cho đến nay. Nay chị yêu cầu ly hôn với anh S.

Về con chung: Chị và anh S không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị và anh S không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Lời khai trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, bị đơn anh Phạm S trình bày:

Anh thống nhất với lời trình bày của chị T về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung, nợ chung. Về tình trạng hôn nhân, anh thống nhất với lời trình bày của chị T, giữa anh và chị T có xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nguyên nhân chính là do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau. Anh thừa nhận anh có đánh chị T 02 lần, cụ thể: Lần thứ nhất vào năm 2017, anh đi nhậu về trễ, hai bên có lời qua tiếng lại nên anh có đánh chị 02 cái vào mặt; lần thứ hai, vào ngày 27/8/2018 tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn D do nghi ngờ chị T có quan hệ bất chính với người đàn ông khác nên giữa anh và chị T xảy ra cự cải, trong lúc nóng giận anh có đánh chị T 01 cái vào mặt làm chị T ngã ra đất, sự việc xảy ra, anh bị Công an phường P triệu tập làm việc. Hiện anh và chị T đã ly thân từ tháng 7/2018 cho đến nay. Nay anh không đồng ý ly hôn với chị T.

Về con chung: Anh và chị T không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh và chị T không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, Chị Hồ T trình bày: Chị vẫn giữ nguyên lời trình bày về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung, nợ chung. Chị yêu cầu được ly hôn với anh S;

về con chung, tài sản chung, nợ chung: Chị và anh S không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Phạm S trình bày: Anh giữ nguyên lời trình bày về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung, nợ chung. Nay anh không đồng ý ly hôn với chị T; về con chung, tài sản chung, nợ chung: Anh và chị T không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Thời hạn thụ lý, giải quyết vụ án; việc cấp tống đạt văn bản pháp luật và việc tuân thủ quy định pháp luật của người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hồ T đối với bị đơn anh Phạm S.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hồ T và anh Phạm S chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 147, do Ủy ban nhân phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương cấp ngày 24/10/2017, hôn nhân là tự nguyện, hợp pháp. Chị T cho rằng, thời gian đầu chị và anh S chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2018 giữa chị và anh Sthường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, nguyên nhân do anh S cờ bạc dẫn đến nợ nần, nay chị yêu cầu ly hôn với anh S; anh S không đồng ý ly hôn với chị T. Xét thấy, tại Biên bản xác minh ngày 01/3/2019 (bút lục số 22) Công an phường P, thị xã C, tỉnh Bình Dương cung cấp thông tin: Vào ngày 30/11/2018 tại Công ty TNHH D thuộc khu phố 1, phường P, thị xã C, tỉnh Bình Dương giữa chị T và anh S có xảy ra cãi vã, xô xát gây mất trật tự nên Công an Phường có mời hai bên đến trụ sở làm việc. Mặt khác, trong quá trình tố tụng, tại phiên toàn, tại Biên bản lấy lời khai ngày 16/01/2019, Biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 14/3/2019, Biên bản hòa giải đoàn tụ không thành ngày 14/3/2019, Biên bản hòa giải ngày 14/3/2019, anh S đều thừa nhận, từ năm 2018 cuộc sống hôn nhân giữa anh và chị T có xảy ra mâu thuẫn, do tính tình, quan điểm sống không hợp nhau, trong lúc nóng giận anh có đánh chị T 02 lần, hiện anh và chị T đã ly thân từ tháng 7/2018 cho đến nay. Điều này cho thấy, hôn nhân giữa chị T và anh S đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cần cho chị T được ly hôn với anh S là phù hợp.

[2] Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Chị Hồ T, anh Phạm S đều tự khai không có, không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[3] Xét lời trình bày của đại diện Viện Kiểm sát về thủ tục tố tụng, nội dung vụ hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị T, là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Hồ T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; các Điều 144, 147 và 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hồ T được ly hôn với anh Phạm S.

2. Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Chị Hồ T, anh Phạm S tự khai không có, không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

3. Về án phí: Chị Hồ T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0029761 ngày 18/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã C, tỉnh Bình Dương; chị Tuyên đã nộp đủ tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Hồ Cẩm Tuyên, anh Phạm Thanh Sang có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 29/03/2019 về ly hôn

Số hiệu:07/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về