Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 19/04/2019 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KONTUM, TỈNH KONTUM

BẢN ÁN 07/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 02 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 614/2018/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2018, về việc "Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lê Minh T, sinh năm 1966, địa chỉ: Thôn 8, xã Đ, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, có mặt;

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1967, địa chỉ: Số nhà 19 đường W, tổ 1, phường T, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện ngày 25/10/2018, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn Anh Lê Minh T trình bày và yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau: Năm 2002 anh Lê Minh T và chị Nguyễn Thị L tự nguyện kết hôn với nhau, quá trình chung sống không hạnh phúc, năm 2012 chị L khởi kiện xin ly hôn anh T, hai người thuận tình ly hôn. Sau khi ly hôn được khoảng một tuần, thì hai người đăng ký kết hôn lại vào ngày 13/12/2012, nhưng cuộc sống chung vợ chồng vẫn không có hạnh phúc, thường phát sinh mâu thuẫn, xúc phạm lẫn nhau, giữa hai người không còn tình cảm yêu thương, không quan T đến nhau, mạnh ai người đó sống, đã ly thân nhau được hai năm, nên anh yêu cầu được ly hôn chị Nguyễn Thị L.

Hai người không có con chung; các con riêng của hai người đều đã trưởng thành tự lập, nên không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không.

- Ý kiến chị Nguyễn Thị L: Tại biên bản hòa giải ngày 24/12/2018 và bản tự khai ngày 26/12/2018 chị L công nhận với lời khai của anh T về mối quan hệ hôn nhân, về con chung, con riêng và về tài sản, công nhận hai người đã sống ly thân được hai năm. Chị L không công nhận với lời khai của anh T về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, vì sau khi chị xin được việc làm cho anh T, thì anh có tính quan hệ lăng nhăng, bất chính với rất nhiều người, thường xuyên uống rượu say về đánh đập chị để lấy cớ đi ở với người khác vài tuần, vài tháng mới về, có lần chị đi gọi về thì anh T xỉ nhục đánh đập chị trước mọi người, con gái của anh T gọi điện chửi mắng làm tổn thương danh dự chị rất nhiều lần. Tuy nhiên chị L không đồng ý ly hôn anh T.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; nợ chung: Không.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở tranh luận tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Tại phiên tòa nguyên đơn giữ nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, đối với chị Nguyễn Thị L, có địa chỉ: tổ 1, phường T2, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Xét yêu cầu của nguyên đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn chị Nguyễn Thị L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần, nhưng đều vắng mặt tại phiên tòa không lý do. Do đó HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 227 của BLTTDS xét xử vụ án vắng mặt chị Nguyễn Thị L.

Về nội dung:

[1] Quan hệ hôn nhân giữa anh Lê Minh T và chị Nguyễn Thị L là hợp pháp. Xét yêu cầu xin ly hôn của anh T đối với chị L, xét thấy: Năm 2002 hai người tự nguyện kết hôn với nhau, đến năm 2012 chị L khởi kiện xin ly hôn anh T, hai người thuận tình ly hôn. Hai người đăng ký kết hôn lại vào ngày 13/12/2012, sau khi tái kết hôn vợ chồng vẫn thường xuyên phát sinh nhiều mâu thuẫn và đã kéo dài nhiều năm, ngày càng trầm trọng, hiện hai người đã ly thân được hai năm, Tòa án đã kiên trì hòa giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng không thành, vì anh T cương quyết xin được ly hôn chị L. Điều đó chứng tỏa mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh T đã trầm trọng, đời sống chung giữa hai người không thể kéo dài, mục đính hôn nhân không đạt được, do đó yêu cầu xin ly hôn của anh T đối với chị L là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, nên được chấp nhận.

[2] Về con chung: Giữa hai người không có con chung. Các con riêng đã trưởng thành.

[3] Về tài sản: Không yêu cầu giải quyết về tài sản. Nợ chung: Không.

[4] Án phí: Đơn xin ly hôn của anh T được chấp nhận, nên anh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 57 của Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận đơn khởi kiện về “Yêu cầu ly hôn” của anh Lê Minh T đối với chị Nguyễn Thị L, đề ngày 25/10/2018.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Lê Minh T được ly hôn chị Nguyễn Thị L.

2. Về con chung: Anh Lê Minh T và chị Nguyễn Thị L không có con chung.

Các con riêng đã trưởng thành.

3. Về tài sản: Không yêu cầu giải quyết về tài sản. Nợ chung: Không.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 144, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Anh Lê Minh T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã tạm nộp theo biên lai thu tiền số 0002413 ngày 06/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố KonTum.

Anh Lê Minh T đã nộp đủ tiền án phí.

5. Quyền kháng cáo: Anh Lê Minh T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (02/4/2019). Chị L vắng mặt tại phiên tòa, thì thời hạn kháng cáo 15 ngày được tính từ ngày chị L được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 19/04/2019 về ly hôn

Số hiệu:07/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum - Kon Tum
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về