Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 12/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 07/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 12 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 367/2018/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2018 về việc “ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2019/QĐXX-ST ngày 01 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị M, sinh năm 1972

Địa chỉ: Thôn H, xã S, huyện K, tỉnh Hải Dương. (Có mặt tại phiên tòa)

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1967

Địa chỉ: Thôn H, xã S, huyện K, tỉnh Hải Dương (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản lấy lời khai của nguyên đơn là chị Hoàng Thị M trình bày:

Chị M và anh Nguyễn Văn K kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã S, huyện K, tỉnh Hải Dương vào ngày 02/01/1999. Sau ngày cưới anh chị chung sống hạnh phúc với nhau đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do năm 2015, anh K bỏ nhà vào miền

Nam làm ăn. Khi vào trong đó làm ăn thì anh K vẫn thường xuyên gọi điện và gửi tiền về cho chị để lo công việc gia đình ở nhà, trong khi một mình chị phải ở nhà chăm lo gia đình hai bên và con cái. Bản thân chị ở nhà rất vất vả, cần có một người chồng để hỗ trợ, giúp đỡ nhau. Do vậy chị đã nhiều lần động viện, khuyên bảo anh K về quê cùng chị và các con để làm ăn cho gần gia đình nhưng anh K cương quyết không về. Nay chị xác định vợ chồng không còn chung lối sống, chí hướng, không thể về chung sống cùng nhau được nên chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn K.

Về con chung:

Chị M và anh K có 02 con chung là cháu Nguyễn Hồng H, sinh ngày 18/11/2004 và Nguyễn Hồng S, sinh ngày 03/5/2000. Kể từ khi anh K bỏ vào nam thì chị là người trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung. Nay khi ly hôn, chị M có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H và tự nguyện không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với cháu S đã đủ tuổi trưởng thành nên chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay:

Chị Hoàng Thị M giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình, anh Nguyễn VănK đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về điều kiện thụ lý; quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ đúng quy định của pháp luật, đảm bảo về thời hạn giải quyết vụ án, đã tiến hành các thủ tục hòa giải theo đúng quy định của bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Áp dụng các Điều 28, 35, 39, 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội vÒ mức thu , miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Xử cho chị Hoàng Thị M được ly hôn anh Nguyễn Văn K; Về con chung: Giao con chung cháu Nguyễn Hồng H, sinh ngày 18/11/2004 cho chị Hoàng Thị M được trực tiếp nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của chị M không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con chung; Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị Mkhông yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết. Về án phí: Chị Mphải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thẩm quyền giải quyết: Xét thấy bị đơn anh Nguyễn Văn K đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn H, xã S, huyện K, tỉnh Hải Dương, đối chiếu quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.

[2]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Xét thấy yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị M có nội dung yêu cầu ly hôn nên có quan hệ tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[3]. Về tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Văn K đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do; căn cứ vào khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là phù hợp.

[4].Về quan hệ hôn nhân: Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Hoàng Thị M, thấy rằng chị M và anh K kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện K, tỉnh Hải Dương vào ngày 02/01/1999 đúng theo quy định pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa chị M và anh K là hợp pháp. Xét thấy nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị M và anh K là do giữa anh chị không thống nhất được việc xây dựng kinh tế, bản thân anh K muốn vào nam làm ăn lập nghiệp trong khi chị M có nguyện vọng được cùng chồng tạo dựng kinh tế và vun đắp gia đình tại quê nhà.

Chị M có tư tưởng muốn vợ chồng ở gần nhau, cùng nhau cố gắng làm ăn trong khi anh K lại có suy nghĩ đi làm ăn xa để mưu sinh cho gia đình dẫn đến hai vợ chồng bất đồng quan điểm với nhau, không ai cảm thông và thấu hiểu cho nhau. Đây là nguyên nhân khiến cuộc sống vợ chồng không còn H phúc và tình cảm nữa nên nay chị M đã xác định không thể tiếp tục cuộc sống vợ chồng như bây giờ nữa. Do vậy nhận thấy rằng tình trạng hôn nhân giữa chị M và anh K không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh K đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần để trình bày quan điểm của mình nhưng anh đều vắng mặt. Tại biên bản lấy lời khai của anh Nguyễn Văn Minh là anh trai của anh Nguyễn Văn K xác định anh K và chị M có mâu thuẫn với nhau. Nay chị M có đơn xin ly hôn anh K thì anh cũng đã trao đổi nội dung với anh K thì anh K xác định do anh K đang phải điều trị ở bệnh viện trong miền Nam nên không thể về làm việc tại Tòa án được, anh cũng nhất trí việc ly hôn và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh và anh cũng không có ý kiến gì thêm. Do vậy căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy nên chấp nhận cho chị M được ly hôn anh K là có căn cứ.

[5]. Về con chung: Chị M và anh K có 02 con chung: cháu Nguyễn Hồng H, sinh ngày 18/11/2004 và Nguyễn Hồng S, sinh ngày 03/5/2000.

Tại phiên tòa hôm nay, chị M vẫn giữ nguyên nguyện vọng xin được nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hồng H. Xét thấy việc giao nuôi dưỡng con chung phải căn cứ vào các điều kiện vật chất, tinh thần cũng như quyền lợi mọi mặt của các cháu. Theo như lời khai của cháu, cũng như của chị M thì từ trước đến nay thì chị là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu. Bên cạnh đó bản thân cháu H có nguyện vọng ở cùng chị M. Do đó để đảm bảo quyền lợi của cháu nên cần giao cháu Nguyễn Hồng H, sinh ngày 18/11/2004 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với tình hình thực tế, với nguyện vọng của cháu cũng như phù hợp với các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Đối với việc cấp dưỡng nuôi con chị M không yêu cầu nên HĐXX không đề cập đến.

Đối với Nguyễn Hồng S, sinh ngày 03/5/2000 đã đủ tuổi trưởng thành nên chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết

[6]. Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị M không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[7]. Về án phí: Chị Hoàng Thị M phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56. 81,82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hoàng Thị M được ly hôn anh Nguyễn Văn K.

Về con chung: Giao con chung cháu Nguyễn Hồng H, sinh ngày 18/11/2004 cho chị M được trực tiếp nuôi dưỡng. Chị M tự nguyện không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Đối với Nguyễn Hồng S, sinh ngày 03/5/2000 đã đủ tuổi trưởng thành nên chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị M không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Chị Hoàng Thị M phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số AA/2017/0001851 ngày 24 tháng 9 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.

Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị M có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với anh Nguyễn Văn K vắng mặt thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 12/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:07/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về