Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 03/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH HÀ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 07/2019/HNGĐ-ST NGÀY 03/04/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 03 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Hà xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  thụ  lý  số  288/2018/TLST-HNG§  ngµy 13/12/2018 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 13/2/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 04 ngày 11/3/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Tăng Thị Quỳnh N, sinh năm 1997; (vắng mặt) Nơi cư trú: Xóm 9, xã L, huyện T, tỉnh Hải Dương;

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân T, sinh năm 1988; (vắng mặt) Nơi cư trú: Khu 6, thị trấn H, huyện T, tỉnh Hải Dương;

3. Người làm chứng

- Bà Nguyễn Thị N; (vắng mặt)

Nơi cư trú: Xóm 9, xã L, huyện T, tỉnh Hải Dương;

- Ông Nguyễn Quang T; (vắng mặt)

Nơi cư trú: Khu 6 thị trấn H, huyện H, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, biên bản lấy lời khai, nguyên đơn trình bày: Chị và anh Nguyễn Xuân T kết hôn ngày 13/10/2014 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn H, huyện T, tỉnh Hải Dương. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị sống hạnh phúc khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng có nhiều bất đồng về quan điểm sống và làm kinh tế nên vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát, cãi chửi nhau. Từ tháng 9/2017 chị đã bỏ về nhà đẻ ở, và vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định không còn tình cảm với anh T nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là Nguyễn Hữu L, sinh ngày 27/11/2015, đang ở cùng với chị và ông bà ngoại. Khi ly hôn, chị xin nuôi con và tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay chị làm công nhân, thu nhập trung bình là 7 triệu đồng/ tháng.

Về tài sản chung, công sức, nợ chung: Không có nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, TAND huyện Thanh Hà đã nhiều lần tống đạt và niêm yết các văn bản tố tụng của Tòa án theo quy định pháp luật nhưng bị đơn không đến Tòa án làm việc và không có quan điểm gì đối với yêu cầu của nguyên đơn.

* Lời khai của gia đình chị N, anh T và tài liệu xác minh tại chính quyền địa phương thể hiện: Vợ chồng chị N, anh T sau một thời gian chung sống hạnh phúc đã nảy sinh mâu thuẫn. Vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ nhiều tháng nay.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt.

Đại diện VKSND huyện Thanh Hà phát biểu ý kiến: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Thư  ký, Hội đồng xét xử (viết tắt: HĐXX) và nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 luật Hôn nhân và gia đình; Điều 227, Điều 228, Điều 229, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/QH 14 ngày 30- 12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Về quan hệ hôn nhân, xử chị N ly hôn anh T. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Hữu L, sinh ngày 27/11/2015 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con chung thành niên. Chấp nhận tự nguyện của chị N không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Tại phiên tòa, nguyên đơn, người làm chứng vắng mặt và đã có ý kiến đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng. Vì vậy Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng theo quy định tại Điều 227, 229 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị N, anh T có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Thanh Hà, huyện Thanh Hà trên cơ sở tự nguyện nên là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập anh T nhiều lần, nhưng anh T không đến Tòa án làm việc theo giấy triệu tập của Tòa án. Căn cứ lời khai của nguyên đơn và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy: Sau khi kết hôn, vợ chồng chị N, anh T chỉ sống hạnh phúc trong một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu do vợ chồng có nhiều bất đồng về quan điểm sống và làm kinh tế dẫn đến vợ chồng xô xát, cãi chửi nhau. Chị N đã bỏ về nhà đẻ ở từ tháng 9/2017, và vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay không ai quan tâm đến ai. Nay chị N không còn thương yêu, không còn tình cảm với anh T và kiên quyết xin ly hôn với anh làm cho quan hệ hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử chị N ly hôn anh T là phù hợp với quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

[3]. Về quan hệ con chung: Vợ chồng chị N, anh T có 01 con chung là Nguyễn Hữu L, sinh ngày 27/11/2015. Xét chị N có nguyện vọng xin nuôi con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Gia đình chị N ý kiến sẽ hỗ trợ chị N chăm sóc cháu L. Mặt khác, chính quyền địa phương ý kiến nếu giao con cho mẹ nuôi dưỡng dưỡng sẽ đảm bảo quyền lợi của con hơn vì hiện nay anh T đi làm ăn xa. Do vậy, cần giao con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của chị N không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

[4]. Về tài sản, công sức, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy HĐXX không xem xét.

[5]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 luật Hôn nhân và gia đình; Điều 227, Điều 228, Điều 229, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử chị Tăng Thị Quỳnh N ly hôn anh Nguyễn Xuân T.

2.  Về  con  chung:  Giao  con  chung  là  Nguyễn  Hữu  L,  sinh  ngày 27/11/2015 cho chị Tăng Thị Quỳnh N trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con chung thành niên. Chấp nhận tự nguyện của chị N không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị N phải chịu 300.000đ án phí sơ thẩm ly hôn, được đối trừ 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2017/ 0000289 ngày 13/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; chị N đã thi hành xong nghĩa vụ về án phí.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 03/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:07/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Hà - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về