Bản án 07/2018/HNGĐ-ST ngày 12/02/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 07/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/02/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 02 năm 2018 tại Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý 317/2017/TLST-HNGĐ,ngày 09/10/2017 về tranh chấp ly hôn theo quyết định hoãn phiên tòa 06/2018/QĐST- HNGĐ ngày 24/01/2018 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Nguyễn Văn H, sinh năm 1967 Địa chỉ: Tổ 9, ấp B, xã H, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.

2. Bị đơn: Dương Thị Bé S, sinh năm 1965 (vắng) Địa chỉ: Tổ 9, ấp B, xã H, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 14/9/2017 và các lời khai tại Toà án nguyên đơn ông Nguyễn Văn H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông H và bà Bé S chung sống với nhau khoản 8 – 9 năm nay, không có tổ chức cưới nhưng có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Phú Hựu huyện Châu Thành vào năm 2013. Vợ chồng chung sống với nhau những năm đầu hạnh phúc, đến khoảng năm 2016 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẩn do tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên cải vã làm mất đi hạnh phúc nên đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay.

Hiện nay ông H không còn tình cảm với bà Dương Thị Bé S nên yêu cầu được ly hôn với bà Bé S.

- Về con chung, tài sản chung và nợ chung: không có.

Theo biên bản lấy lời khai ngày 13/10/2017 bị đơn bà Dƣơng Thị Bé S trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông H tìm hiểu nhau tiến đến hôn nhân không có tổ chức cưới nhưng có đăng ký kết hôn vào năm 2013. Thời gian đầu bà và ông H chung sống hạnh phúc, đến tháng 11/2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẩn do ông H nói rằng bà đối xử không tốt với con riêng của ông H nên vợ chồng thường hay cải nhau. Trước đây ông H có khởi kiện xin ly hôn với bà nhưng được Tòa án động viên nên ông H rút đơn khởi kiện. Từ ngày Tòa án Đình chỉ giải quyết vụ án đến nay thì ông H cũng không về chung sống với bà.

Nay ông H xin ly hôn, bà Sáu không đồng ý vì bà vẫn còn tình cảm với ông H.

- Về con chung, tài sản chung và nợ chung: không có.

* Tại phiên tòa Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu ý kiến

- Về  việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đều tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: nguyên đơn chấp hành đúng qui định tại điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn Dương Thị Bé S không chấp hành đúng quy định tại điều 70 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Viện kiểm sát nhận thấy việc ông H xin ly hôn với bà Bé S là có căn cứ nên đề nghị chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn VănH được ly hôn với bà Dương Thị Bé S theo Điều 56 luật Hôn nhân gia đình. Về con chung, tài sản chung và nợ chung không có nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi khi nghiên cức các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà Dương Thị Bé S nhưng tại phiên tòa hôm nay bà Bé S vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Bé S theo thủ tục chung.

[2] Về quan hệ vợ chồng: ông Nguyễn Văn H và bà Dương Thị Bé S chung sống với nhau naêm 2013, có đăng ký kết hôn nên được xác định là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống ông H cho rằng do vợ chồng không hợp nhau, bà Bé S lại không tôn trọng ông nên vợ chồng thường xuyên gây gỗ làm mất đi hạnh phúc.

Tại phiên tòa ông H vẫn yêu cầu được ly hôn với bà Bé S, bà Bé S thì cho rằng bà vẫn còn tình cảm với ông H nên không đồng ý ly hôn nhưng bà Sáu cũng không có giải pháp nào để vợ chồng đoàn tụ. Như vậy, chứng tỏ mâu thuẩn giữa ông H và bà Sáu đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử xét thấy, nếu để ông, bà chung sống trở lại cũng không tạo được một gia đình hạnh phúc, bền vững. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn H được ly hôn với bà Dương Thị Bé S.

[3] Về con chung, tài sản chung và nợ chung: không có nên không xem xétgiải quyết.

[4] Về án phí: Ông Nguyễn Văn H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về thủ tục tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như đã phân tích trên là có căn cứ nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban Thường Vụ QuốcHội ban hành ngày 30/12/2016.

 Xử :

1. Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn H được ly hôn với bà Dương Thị Bé S.

2. Về con chung, tài sản chung và nợ chung: không có

3. Về án phí: Ông Nguyễn Văn H phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng ông H đã nộp ngày 09/10/2017 theo biên lai số 12207 tại Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành sẽ được chuyển thành án phí ông H phải nộp.

4. Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn; báo cho nguyên đơn biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2018/HNGĐ-ST ngày 12/02/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:07/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về