Bản án 07/2017/HS-ST ngày 30/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 07/2017/HS-ST NGÀY 30/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30/11/2017, tại Tòa án nhân dân huyện Phù Y, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự, thụ lý số: 08/2017/TLST-HS ngày 09/11/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2017/QĐXXSTHS ngày 15/11/2017 đối với bị cáo: Khoàng Văn H, sinh ngày 08/4/1993, sinh và cư trú tại bản Tin T, xã Mường Tu, huyện Mường Ch, tỉnh Điện Biên, đang chấp hành án tại Trại giam Yên Hạ - Tổng cục VIII, Bộ Công an; nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Khoàng Văn B và bà Lường Thị S, chưa có vợ, con; tiền sự: không; tiền án: Ngày 13/12/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã Mường L, tỉnh Điện Biên xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/9/2017 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ ngày 19/9/2017 tổ kiểm tra đồ tiếp tế phạm nhân của phân trại số 3, Trại giam Yên Hạ - Tổng cục VIII, Bộ Công an phát hiện trong túi quà tiếp tế của Khoàng Văn H là phạm nhân lao động tại Đội 18, phân trại số 3, Trại giam Yên Hạ - Tổng cục VIII, Bộ Công an có 01 gói chất bột màu trắng nghi là hêrôin, tổ kiểm tra của phân trại số 3, Trại giam Yên Hạ đã lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang và thu giữ, niêm phong 01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng.

Quá trình điều tra Khoàng Văn H khai nhận: Vào khoảng 05 giờ 50 phút ngày 18/9/2017,  sau khi điểm buồng xong H đi từ buồng ở của mình đến đầu hồi buồng số 3.1 thì nhặt 01chiếc điện thoại di động của ai đánh rơi, H nhặt lên và gọi cho mẹ đẻ là Lường Thị S để đến thăm và bảo khi đến thì đem theo một ít chất ma túy cho H để sử dụng và nói nếu không đem theo thì đừng có đến thăm, rồi tắt điện thoại và vứt xuống cống thoát nước gần đó.

Ngày 21/9/2017 cơ quan chức năng mở niêm phong và cân tịnh chất bột màu trắng thu giữ khi bắt quả tang Khoàng Văn H có trọng lượng là: 1,143gam; lấy mẫu vật gửi giám định ký hiệu H = 0,182gam.

Ngày 28/9/2017 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có Kết luận giám định số:909/KLMT, kết luận: “Mẫu vật gửi giám định ký hiệu H là chất ma túy; loại chất Hêrôin; trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,182gam.

Tại bản cáo trạng số:82/KSĐT-MT ngày 09/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Y, tỉnh Sơn La truy tố bị can Khoàng Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đã thực hiện ngày 19/9/2017, đồng thời khai nhận do bị cáo nghiện ma túy, nên khi nhặt được chiếc điện thoại của ai đánh rơi bị cáo đã dùng gọi cho mẹ của mình đến thăm và dặn khi đến nhớ đem theo một ít chất ma túy giấu vào trong túi đồ để bị cáo sử dụng, ngày 19/9/2017 sau khi nhận đồ với bà S (mẹ bị cáo), trên đường đi về đến cổng vào khu nhà ở của phạm nhân thì bị phát hiện, bắt giữ người và vật chứng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Y giữ quyền công tố tại phiên tòa trình bày luận tội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định đối với bị cáo như bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 3 Điều 7 Bộ luật năm 2015; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa 14; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Khoàng Văn H từ 24 đến 30 tháng tù. Tổng hợp với thời gian chưa chấp hành của bản án số: 05/2016/HSST ngày 13/12/2016 của Toà án nhân dân thị xã Mường L, tỉnh Điện Biên là 05 năm 11 tháng 04 ngày, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung theo quy định, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam.

Vật chứng của vụ án: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy số chất ma túy còn lại sau khi lấy mẫu vật gửi giám định là 0,961gam hêrôin và 0,15gam mẫu vật gửi giám định trả lại, đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Y, tỉnh Sơn La.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 bị cáo không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Khoàng Văn H tự bào chữa, tranh luận tại phiên tòa: Nhất trí với bản cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Y và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Phù Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Y và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

Về cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Y, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội về hành vi của bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định của cơ quan chuyên môn và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ cả về thời gian, địa điểm phạm tội và vật chứng của vụ án thu được. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình đã thực hiện.

Đối với bà Lường Thị S là người trực tiếp đến thăm gặp và đưa đồ tiếp tế cho bị cáo, tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên bà S  không thừa nhận được giấu gói chất ma túy vào đồ tiếp tế để đưa cho bị cáo như bị cáo H khai nhận, việc bị cáo H khai là không có thật, cơ quan điều tra Công an huyện Phù Y đã tiến hành điều tra, xác minh về lời khai của bị cáo. Tuy nhiên ngoài lời khai của bị cáo cơ quan điều tra không thu thập được tài liệu, chứng cứ nào về việc bà S có hành vi liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cơ quan điều tra không có cơ sở, căn cứ để khởi tố vụ án, khởi tố bị can, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Y  không truy tố đối với bà Lường Thị S. Do đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm không đề cập xem xét đối với bà S trong vụ án này.

Với những chứng cứ nêu trên, đủ cơ sở khách quan để kết luận bị cáo Khoàng Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Xét tính chất của vụ án: Bị cáo thực hiện hành vi giản đơn, thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy chỉ nhằm mục đích để sử dụng. Về mức độ hành vi là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng do ý thức chấp hành nội quy, quy chế của trại không nghiêm, đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ảnh hưởng đến công tác giáo dục phạm nhân cũng như uy tín của Trại giam Yên Hạ, mặt khác làm ảnh hưởng xấu đến đại đa số các phạm nhân đang có ý thức học tập, lao động tốt. Để đảm bảo tính răn đe và giáo dục chung cần xử lý nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Về nhân thân của bị cáo: Ngày 13/12/2016 bị Toà án nhân dân thị xã Mường L, tỉnh Điện Biên đã xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, trong thời gian đang chấp hành hình phạt tại Trại giam Yên Hạ do ý thức chấp hành kỷ luật không nghiêm lại tiếp tục phạm tội mới do cố ý về tội ma túy, thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên sau khi bị bắt bị cáo đã có thái độ khai báo thành khẩn, rõ ràng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, khi cân nhắc mức hình phạt cần xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định.

Về biện pháp ngăn chặn: Do bị cáo đang chấp hành án tại phân trại số 3, Trại giam Yên Hạ, xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo theo Điều 228 của Bộ luật tố tụng hình sự là rất cần thiết để đảm bảo công tác thi hành án hình sự .

Ngoài hình phạt chính, lẽ ra bị cáo còn bị phạt bổ sung (phạt tiền) theo khoản 5 Điều 194 của Bộ luật hình sự, nhưng xét thấy quá trình điều tra, xác minh bị cáo không có tài sản, không có thu nhập, sống phụ thuộc gia đình, không có khả năng thi hành án phạt tiền, do đó không áp dụng.

Vật chứng của vụ án: Cần tịch thu tiêu huỷ 0,961gam là số ma túy còn lại sau lấy mẫu vật gửi giám định và 0,15gam mẫu vật giám định hoàn trả lại, hiện đang ở tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Y, tỉnh Sơn La.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Tại phiên tòa bị cáo khai gia đình bị cáo là hộ nghèo năm 2017, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn nộp tiền án phí theo quy định. Tại giấy chứng nhận hộ nghèo số 75/UBND-CN ngày 12/02/2017 của UBND xã Mường T, huyện Mường Ch, tỉnh Điện Biên công nhận gia đình bị cáo là hộ nghèo 2017, đối chiếu với Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 thì bị cáo thuộc trường hợp được miễn nộp án phí.

Trong vụ án này Hội đồng xét xử sơ thẩm có một số kiến nghị sau:

1. Đối với cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Y: Tiếp tục điều tra, xác minh đối với bà Lường Thị S (mẹ của bị cáo) là người đến thăm gặp và đưa đồ tiếp tế cho bị cáo, nếu có tài liệu, chứng cứ xác định bà S có hành vi liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo thì phải được đưa ra xử lý nghiêm minh, kịp thời theo quy định của pháp luật, tránh để lọt người, lọt tội cũng như việc xử lý công bằng đối với những người có hành vi phạm tội, để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

2. Đối với Trại giam Yên Hạ: Cần siết chặt hơn nữa trong công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát đối với người nhà của phạm nhân đến thăm gặp và đưa đồ tiếp tế của gia đình cho phạm nhân đang lao động tại các phân trại, thực hiện đúng nội quy, quy chế của trại, không để xảy ra trường hợp tương tự như trong vụ án này, gây ảnh hưởng đến công tác, quản lý, giáo dục phạm nhân của Trại giam Yên Hạ.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố bị cáo Khoàng Văn H, phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 249 Bộ luật năm 2015; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa 14.

Xử phạt bị cáo Khoàng Văn H 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tổng hợp với thời gian chưa chấp hành hình phạt của bản án số: 05/2016/HSST ngày 13/12/2016 của Toà án nhân dân thị xã Mường L, tỉnh Điện Biên là 05 năm 11 tháng 04 ngày. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 07 năm 11 tháng 04 ngày tù, tính từ ngày bị bắt 19/9/2017.

3- Vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ 0,961gam Hêrôin ký hiệu H1 là số ma túy còn lại sau khi lấy mẫu vật gửi giám định và 0,15gam hêrôin ký hiệu H là mẫu vật gửi giám định trả lại, đều ở tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Y, tỉnh Sơn La.

4- Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14. Bi cáo Khoàng Văn H được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Sơn La trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2017/HS-ST ngày 30/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:07/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về