Bản án 06/2021/HS-ST ngày 17/03/2021 về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUAN HÓA - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 06/2021/HS-ST NGÀY 17/03/2021 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Quang H - Sinh ngày 26/02/2001; Tên gọi khác: Không.

Nơi sinh: Xã Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Khu Khằm, thị trấn Hồi Xuân, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Trình độ học vấn: 10/12; Con ông: Lò Khăm T, sinh năm 1974; Con bà: Phạm Thị L, sinh năm 1973; Vợ: Chưa có;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/9/2020 chuyển tạm giam ngày 10/9/2020, hiện đang Tạm giam tại Nhà Tạm giữ Công an huyện Quan Hóa. Có mặt tại phiên tòa.

* Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Phạm Thị L, sinh năm 1973. Trú tại: Khu Khằm, thị trấn Hồi Xuân, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ ngày 30/8/2020, Lò Quang H gọi điện thoại và hỏi mua ma túy với một người tên là T, trú tại khu 3, thị trấn Hồi Xuân, huyện Quan Hóa, với nội dung “Bác có còn đồ (ý nói có ma túy) không, bán cho cháu 350.000đ. Người phụ nữ tên T trả lời “Ừ, xuống đợi một tí”,. Sau đó H xuống nhà người tên T đợi ở ngoài cổng và được một người đàn ông không quen biết bán cho H 05 viên ma túy tổng hợp với giá 350.000đ (Ba trăm năm mươi nghìn đồng).

Sau khi mua được ma túy, H đến thuê phòng trọ số 03, thuộc nhà trọ Hoàng T, tại khu 4, thị trấn Hồi Xuân, huyện Quan Hóa để ở. Tại đây H đã sử dụng 02 viên ma túy tổng hợp, rồi khóa của phòng lại, đi ra quán cắt tóc của anh Trần Tùng D, trú tại khu 5, thị trấn Hồi Xuân, huyện Quan Hóa bán chiếc điện thoại ( Chiếc điện thoại bị cáo đã dùng gọi cho người tên là T để hỏi mua ma túy) với giá 1.700.000đ, mục đích bán điện thoại lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Đến 22 giờ 30 phút ngày 31/8/2020, Huy cùng Lê Tuấn A, sinh năm 1994, trú tại: Khu 3 thị trấn Hồi Xuân, huyện Quan Hóa và Lê Đăng T, sinh năm 2001, trú tại: Khu 2, thị trấn Hồi Xuân, huyện Quan Hóa cùng chơi bi-a tại cổng trường THPT huyện Quan Hóa.

Khong 23 giờ cùng ngày, Lò Quang H rủ Lê Tuấn A và Lê Đăng T về phòng trọ của mình đã thuê trước đó để nghỉ. Tại phòng trọ của H, H đã chuẩn bị dụng cụ để sử dụng ma túy, gồm: 02 vỏ chai nước Sting bằng nhựa, 02 ống hút (01 ống hút bằng tờ tiền mệnh giá 1.000đ, 01 ống hút bằng nứa), 01 mẫu giấy bạc của bao thuốc lá, 01 bật lửa ga và 03 viên ma túy tổng hợp. H đã sử dụng 01 viên ma túy bằng hình thức hút qua cóng tại nhà vệ sinh của phòng trọ, sau khi sử dụng xong ma túy, H quay ra ngoài cầm 02 viên ma túy tổng hợp mời Lê Tuấn A và Lê Đăng T sử dụng và đưa mỗi người sử dụng 01 viên ma túy tổng hợp, Lê Tuấn A và Lê Đăng T sử dụng ma túy luôn tại phòng trọ của Lò Quang H, bằng các dụng cụ Lò Quan H đã chuẩn bị trước đó (gọi là Cóng). Đến khoảng 00 giờ 05 phút ngày 01/9/2020 thì Công an thị trấn Hồi Xuân nhận được tin báo tại dãy trọ Hoàng T có biểu hiện nghi vấn sử dụng trái phép chất ma túy, nên Công an thị trấn Hồi Xuân đã tiến hành kiểm tra phòng trọ số 03 của dãy trọ Hoàng T, tại khu 4, thị trấn Hồi Xuân, huyện Quan Hóa có 03 thanh niên, gồm Lò Quan H, Lê Tuấn A, Lê Đăng T. Quá trình làm việc cả ba đều thừa nhận vừa sử dụng ma túy xong, ma túy là của Lò Quang H, Huy rủ Tuấn A và Đăng T về phòng trọ để ngủ và cho sử dụng ma túy, ma túy và các dụng cụ sử dụng ma túy là do H chuẩn bị sẵn. Cơ quan Công an thị trấn Hồi Xuân đã lập biên bản quả tang, thu giữ toàn bộ các dụng cụ sử dụng ma túy, gồm: 01 chai nhựa màu trong suốt có viền cổ chai màu đỏ, phía dưới cắm ống hút bằng cây nứa; 01 chai nhựa trên thân chai có túi nilon dán dòng chữ Sting phía dưới có gắn ống hút làm bằng tờ tiền mệnh giá 1.000đ và 01 mảnh giấy bạc của bao thuốc lá đã bị đốt qua lửa. Ngoài ra còn thu giữu tiền và một số tài sản khác của Lò Quang H, Lê Tuấn A, Lê Đăng T.

Kết quả test nhanh MDT (kết quả xét nghiệm 03 chất ma túy) của Trung tâm y tế huyện Quan Hóa, ngày 01/9/2020 cho thấy: Trong nước tiểu của Lò Quang H, Lê Đăng T, Lê Tuấn A đều dương tính với ma túy nhóm ATS (Met, MDMA) và dương tính với nhóm ma túy MOR (Morphin, Hêrôin); THC (cần xa, bồ đà) âm tính.

Tại bản kết luận giám định số 2509/PC09 ngày 09/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận:

- Chất màu trắng bám dính một đầu ống hút bằng cây nứa của hộp giấy bìa cattong niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, không xác đinh được khối lượng(Trọng lượng);

- Chất màu đen bám dính một đầu ống hút làm bằng tờ tiền giấy mệnh giá 1.000đ của hộp giấy bìa cattong niêm phong gửi giám định, qua giám định tìm thấy chất ma túy, loại: Methamphetamine, không xác định được khối lượng (Trọng lượng);

- Chất màu đen bám dính mảnh giấy của bao thuốc lá có một mặt màu trắng và một mặt màu vàng đã bị nhàu nát và bị đốt qua lửa của phong bì niêm phong gửi giám định, qua giám định đã tìm thấy các chất ma túy, loại: Hêrôin, không xác định được khối lượng (Trọng lượng).

Tại phiên tòa, những người làm chứng vắng mặt, lời khai trong quá trình điều tra có trng hồ sơ vụ án, đó là: Tối ngày 31/8/2020, Lò Quang H đã rủ 02 người về phòng trọ của H để nghỉ, tại phòng trọ thì thấy H đã chuẩn bị sẵn các dụng cụ để sử dụng ma túy, khi H sử dụng ma túy trong nhà vệ sinh xong, quay ra đã rủ và đưa cho Lê Đăng T và Lê Tuấn A mỗi người 01 viên ma túy để sử dụng, số ma túy Tuấn A và Đăng T sử dụng là ma túy của Lò Quang H.

Chị Hoàng Thị T và chị Bùi Vân A trình bày: Chị Hoàng T kinh doanh nhà trọ, chiều 31/8/2020 chị có nhờ chị Bùi Vân A trông hộ khu nhà trọ, sau đó Lò Quang H vào thuê phong, hình thức thuê bằng miệng và H đã đặt cọc 500.000đ, H đã nhận phòng và nhận chìa khóa phòng, Lò Quang H đã được quyền sử dụng phòng trọ. Chị Hoàng Thị T cũng cho biết chị là người đã báo cơ quan chức năng khi thấy phòng trọ 03 của dãy phòng trọ có biểu hiện nghi vấn sử dụng ma túy.

Tại Cáo trạng số 05/CT-VKS-QH ngày 01/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quan Hóa truy tố bị cáo Lò Quang H về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 BLHS;

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quan Hóa tranh luận và luận tội: Vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bị cáo Lò Quang H phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”;

Đề nghị áp dụng điều luật: Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự.

Đề nghị về hình phạt đối với Lò Quang H, từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày tạm giữ, tạm giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số dụng cụ dùng để sử dụng ma túy, trong phong bì niêm phong, vì không có giá trị sử dụng;

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 1.700.000đ là tiền bị cáo bán điện thoại mà có và 1.000đ là tờ tiền bị cáo dùng làm ống hút.

Áp dụng khoản 2 điều 135, khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo không bị Cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng biện pháp ép cung, bức cung hay nhục hình và khai nhận biết rõ hành vi tổ chức sử dụng sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do bản thân còn trẻ không suy nghĩ thấu đáo, nông nổi, không kìm chế được hành vi, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã nêu là đúng, các lời khai của những người làm chứng, người chứng kiến được công bố là đúng, bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Phạm Thị L đã nhận lại được chiếc máy tính bảng và các tài sản mà Lò Quang H ủy quyền cho chị nhận lại, nên chị không có ý kiến gì thêm.

Tại phiên tòa Bị cáo nhận tội, không có ý kiến tranh luận với đại diện VKS.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về việc làm của mình, vì tuổi trẻ bồng bột, nông nỗi, suy nghĩ chưa chín chắn, ham chơi, đua đòi, nên không làm chủ được bản thân, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo sớm được trở về với gia đình, xã hội và sẽ trở thành những người công dân tốt.

Căn cứ vào các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên; lời nói sau cùng của các bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhân định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra vụ án: Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Người làm chứng, người chứng kiến đã được triệu tập hợp lệ, nhưng vắng mặt, tại phiên tòa; bị cáo, đại diện Viện kiểm sát không yêu cầu triệu tập những người này tham gia phiên tòa. Xét thấy, người làm chứng, người chứng kiến vắng mặt, nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai, việc vắng mặt của những người này không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự, HĐXX quyết định xét xử vắng mặt người làm chứng và người chứng kiến.

[2] Về tội danh: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản hiện trường, kết quả giám định và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án. HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 23 giờ, ngày 31/8/2020, rạng sáng ngày 01/9/2020, tại phòng số 03 nhà trọ Hoàng T, tại khu 4 thị trấn Hồi Xuân, huyện Quan Hóa, Lò Quang H đã chuẩn bị sẵn ma túy, chai nhựa, ống hút, giấy bạc để sử dụng ma túy, sau đó H đã rủ Lê Tuấn A và Lê Đăng T đến phòng trọ của mình để nghỉ và cùng sử dụng ma túy. Tại đây, H đã cho Lê Tuấn A và Lê Đăng T mỗi người 01 viên ma túy tổng hợp, đồng thời lấy dụng cụ đã chuẩn bị từ trước cho 02 người này sử dụng ngay tại phòng trọ của mình. Khi cả 03 người sử dụng xong ma túy thì bị lực lượng công an thị trấn Hồi Xuân kiểm tra, phát hiện. Hành vi trên của Lò Quang H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 BLHS; Như vậy, Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng pháp luật, không oan sai.

[3] Về tính chất vụ án: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền về các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Đặc biệt hiện nay, tại địa phương, tình trạng sử dụng, tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy đang diễn ra hết sức phức tạp và đã đến mức báo động, bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng bị cáo vẫn bất chấp, cố tình thực hiện hành vi chuẩn bị ma túy, công cụ sử dụng ma túy rồi rủ rê, lôi kéo những người khác sử dụng trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo thể hiện ý chí xem thường pháp luật. Do đó, tính chất vụ án là rất nghiêm trọng.

[4] Xét nhân thân bị cáo thì thấy: Bị cáo tuổi đời còn trẻ, có nhân tốt, chưa có tiền án tiền sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Vì vậy HĐXX cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật; Bị cáo không có tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt chính:

Từ những phân tích, đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử, xét thấy cần lên cho bị cáo mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, để trừng trị người phạm tội, đối với hành vi vi phạm, mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm. Khi lượng hình, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Nhưng việc có xem xét giảm nhẹ đến đâu thì việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng xét thấy bị cáo đã khai báo tại phiên tòa là lao động tự do, không có thu nhập thường xuyên, không có tài sản riêng, nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 hộp giấy bìa catton được dán kín, niêm phong bên trong chứa toàn bộ gói mở niêm phong của phong bì bằng giấy màu trắng viền xanh đỏ và 01 mảnh giấy của bao thuốc lá có một mặt màu trắng và một mặt màu vàng đã bị nhàu nát và bị đốt qua lửa của phong bì bằng giấy viền xanh đỏ; 01 vỏ chai nước bằng nhựa màu trong suốt phía trên cổ chai có viền màu đỏ, phía dưới gắn ống hút bằng cây nứa; 01 vỏ chai nước bằng nhựa trên thân chai có túi nilon dán chữ Sting, trên cổ chai có viền màu đỏ, đây là công cụ, dụng cụ bị cáo dùng để phạm tội, nên tịch thu tiêu hủy;

Đối với 01 tờ tiền mệnh giá 1.000đ (Một nghìn đồng) gắn làm ống hút trên chai Sting, tịch thu sung ngân sách Nhà nước;

Đối với 1.700.000đ (Một triệu bảy trăm nghìn đồng) là tiền bị cáo bán điện thoại mà có, chiếc điện thoại này là bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy, không truy thu được điên thoại, nên số tiền này tịch thu sung ngân sách Nhà nước;

Đơi với: 01 điện thoại Iphone 6 màn hình cảm ứng; 01 điện thoại loại bấm bàn phím màu đen, nhãn hiệu Viettet và 01 điện thoại loại bấm bàn phím màu đen, nhãn hiệu Nokia thu giữ của Lò Quang H, những tài sản này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, Cơ quan CSĐT đã trả lại cho bà Phạm Thị L (Là người được Lò Quang Huy ủy quyền nhận tài sản). HĐXX chấp nhận.

Đối với 01 laptop (Máy tính bảng) màu trắng, nhãn hiệu APPLE, đã qua sử dụng, tài sản này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, Cơ quan CSĐT đã trả lại cho bà Phạm Thị L. HĐXX chấp nhận.

Đối với: 01 điện thoại màn hình cảm ứng hiệu Iphone, 80.000đ (Tám mươi nghìn đồng), 01 xe máy nhãn hiệu Suzuki thu giữ của Lê Tuấn A, những tài sản này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, Cơ quan CSĐT đã trả lại cho Lê Tuấn A. HĐXX chấp nhận.

Đối với 01 điện thoại màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Oppo đã qua sử dụng, thu giữ của Lê Đăng T, tài sản này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, Cơ quan CSĐT đã trả lại cho Lê Đăng T. HĐXX chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo có tội, không thuộc đối tượng miễn án phí hình sự, nên HĐXX buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Bị cáo; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo luật định.

[11] Các nhận định khác:

Đối với Lê Tuấn A, Lê Đăng T là người đã sử dụng trái phép chất ma túy cùng Lò Quang H, Công an huyện Quan Hóa đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phạt tiền, về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Nên HĐXX không xét.

Đối với người phụ nữ tên T ở khu 3 thị trấn Hồi Xuân là người đã bán ma túy cho bị cáo Lò Quang H. Cơ quan CSĐT CÔng an huyện Quan Hóa đã tiến hành xác minh, nhưng hiện tại người phụ nữ này vắng mặt tại địa phương. Cơ quan CSĐT tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý ở vụ án khác.

Đối với chị Hoàng Thị T và chị Bùi Vân A là người cho Lò Quang H thuê phòng trọ để ở, sinh hoạt. Không biết việc Lò Quang H sẽ dùng phòng trọ này là nơi sử dụng trái phép chất ma túy, nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điều 38; điểm s, khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo;

Tuyên bố: Bị cáo Lò Quang H phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

nh phạt: Xử phạt bị cáo Lò Quang H 07 (bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (01/9/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Vật chứng: Áp dụng điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 hộp giấy bìa catton được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký, ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đăng, Lê Minh Tiến, Lại Thị Thanh Loan, Ngân Văn Dũng và các hình dấu cảu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa, bên trong chứa toàn bộ gói mở niêm phong của phong bì bằng giấy màu trắng viền xanh đỏ và 01 mảnh giấy của bao thuốc lá có một mặt màu trắng và một mặt màu vàng đã bị nhàu nát và bị đốt qua lửa của phong bì bằng giấy viền xanh đỏ; 01 vỏ chai nước bằng nhựa màu trong suốt phía trên cổ chai có viền màu đỏ, phía dưới gắn ống hút bằng cây nứa; 01 vỏ chai nước bằng nhựa trên thân chai có túi nilon dán chữ Sting, trên cổ chai có viền màu đỏ;

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 tờ tiền mệnh giá 1.000đ (Một nghìn đồng) gắn làm ống hút trên chai Sting;

Vật chứng trên hiện đang lưu giữ, bảo quản tại kho tang vật của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quan Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/02/2021 giữa Công an huyện Quan Hóa và Chi cục THADS huyện Quan Hóa.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 1.700.000đ (Một triệu bảy trăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo.

Số tiền này hiện đang được gửi tại tài khoản tiền gửi của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Quan Hóa, số 3949.0.1053927 mở tại kho bạc Nhà nước huyện Quan Hóa, theo giấy ủy nhiệm chi ngày 01/02/2021.

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Khoản 1 Điều 21; Khoản 1, điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Buộc các bị cáo Lò Quang H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Kháng cáo, Kháng nghị: Căn cứ điều 331, điều 332, điều 333 và điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự.

Án xử công khai; Có mặt bị cáo và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Bị cáo và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, điều 7, điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án căn cứ điều 30 luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2021/HS-ST ngày 17/03/2021 về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

Số hiệu:06/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quan Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về