Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 24/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐĂK TÔ, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 24/6/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 25/2021/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 03 năm 2021, về việc “tranh chấp về ly hôn, nuôi con”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/QĐXX-HNGĐ ngày 10/5/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị NTL, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Thôn B, xã KĐ, huyện ĐT, tỉnh KT. Có mặt.

- Bị đơn: Anh PVT, sinh năm 1980.

Nơi đăng ký NKTT: Xã CM, huyện CX, tỉnh HT.

Nơi tạm trú: Thôn B, xã KĐ, huyện ĐT, tỉnh KT. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị NTL trình bày:

Chị (NTL) và anh PVT kết hôn ngày 26/8/2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kon Đào. Trong thời gian chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, do không tôn trọng nhau, không còn quan tâm đến nhau, mạnh ai người ấy sống, đã sống ly thân. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không khắc phục được. Chị đã nộp đơn xin ly hôn một lần vào tháng 01 năm 2020, được Tòa án hòa giải nên chị rút đơn khởi kiện nhưng từ đó đến nay, mâu thuẫn vợ chồng vẫn không thay đổi. Chị L không còn tình cảm với anh T, đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: PNTN, sinh ngày 31/10/2013 và PNTD, sinh ngày 28/01/2016. Các con đang ở với chị Lệ, chị xin nhận nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn, anh PVT đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, không có ý kiến về việc xin ly hôn. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án giải quyết vắng mặt bị đơn.

Ý kiến của Kiểm sát viên: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự đều tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị NTL được ly hôn anh PVT. Giao cho Chị L trực tiếp nuôi con PNTNvà PNTD.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bị đơn, anh PVT đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị NTL và anh PVT kết hôn ngày 26/8/2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kon Đào, huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum. Trong thời gian chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không tôn trọng nhau, không còn quan tâm đến nhau, mạnh ai người ấy sống, đã sống ly thân. Chị L đã nộp đơn xin ly hôn vào tháng 01 năm 2020, được Tòa án hòa giải nên chị rút đơn khởi kiện nhưng từ đó đến nay, mâu thuẫn vợ chồng vẫn không thay đổi. Chị L không còn tình cảm với anh T. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng Chị L và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên xử cho chị NTL được ly hôn anh PVT theo Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị NTL nhận nuôi con PNTN và PNTD. Xem xét nguyện vọng của Chị L và các cháu nên giao cháu N và cháu D cho Chị L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Chị L có đủ khả năng nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[3] Về án phí: Chị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 56; 81; 82 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Về hôn nhân: Xử cho chị NTL ly hôn anh PVT.

Về con chung: Giao cho chị NTL trực tiếp nuôi con PNTN, sinh ngày 31/10/2013 và PNTD, sinh ngày 28/01/2016 đến khi con đủ 18 tuổi.

Anh PVT không phải cấp dưỡng nuôi con, có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; không ai được cản trở. Không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Căn cứ Điều 144; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chị NTL phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng, theo biên lai số 0003871 ngày 03/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum. Chị NTL đã nộp đủ án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 24/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:06/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Tô - Kon Tum
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về