Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 24/02/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/02/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 24 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 284/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn” theo Quyết định xét xử số: 43/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên toà số: 09/2021/QĐST- HNGĐ ngày 03 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm 1980 (Có mặt);

Địa chỉ: Ấp B, xã N, huyện C, tỉnh Trà Vinh;

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1979 (Vắng mặt );

Địa chỉ: Ấp B, xã N, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bà Lê Thị T là nguyên đơn trình bày: Bà và ông Nguyễn Văn B chung sống với nhau khoảng năm 1999 nhưng không đăng ký kết hôn, quá trình chung sống có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng N, sinh ngày 09/5/1999 đã trưởng thành. Thời gian chung sống phát sinh mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cự cãi, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc nên bà và ông Nguyễn Văn B đã sống ly thân với nhau từ năm 2014 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu Toà án cho ly hôn với ông Nguyễn Văn B, về con chung đã trưởng thành không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện C đã tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để các đương sự có cơ hội đoàn tụ và thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên tại các phiên họp anh Nguyễn Văn B đều vắng mặt không có lý do nên vụ án không tiến hành hòa giải được. Do đó, Tòa án đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa hôm nay, bà Lê Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đối với ông Nguyễn Văn B vắng mặt không có lý do nên không có ý kiến trình bày.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự tại phiên tòa cho rằng việc thụ lý vụ án “Ly hôn” là đúng quan hệ tranh chấp. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đảm bảo đúng quy định. Về đưa người tham gia tố tụng, Tòa án đã đưa đầy đủ trong hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay nên việc xét xử đúng pháp luật.

Về nội dung: Vị đại diện Viện kiểm sát đã phân tích nội dung vụ án, đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đơn khởi kiện, lời khai, lời trình bày của nguyên đơn, thái độ của phía bị đơn anh Nguyễn Văn B đã bỏ mặc không cùng bà Lê Thị T xây dựng gia đình hạnh phúc. Bà T và ông B không đăng ký kết hôn, đây là hôn nhân không hợp pháp nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử không công nhận quan hệ vợ chồng. Về tài sản chung và nợ chung: bà T khai không có không yêu cầu nên đề nghị không xem xét. Về con chung đã trưởng thành nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật của vụ án là “Ly hôn”. Bị đơn cư trú tại Ấp B, xã N, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh. Sau khi thụ lý, Tòa án đã ra thông báo về việc thụ lý vụ án và tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định tại Điều 196, 208, 209, 210 và Điều 211 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên vụ án không tiến hành hòa giải được do bị đơn vắng mặt đến lần thứ hai. Tại phiên tòa hôm nay ông Nguyễn Văn B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1, 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn Văn B.

[2] Về mặt nội dung: Bà Lê Thị T và ông Nguyễn Văn B tự quen biết và chung sống với nhau như vợ chồng vào năm 1999 nhưng không đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống từ năm 1999 bà T cho rằng giữa bà và ông B phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn được, ông bà đã sống ly thân với nhau từ năm 2014 đến nay. Trong thời gian ly thân giữa hai bên không liên lạc với nhau, không thể hiện ý chí mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đối với ông B đã được Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần đến phiên hòa giải nhưng ông B không đến. Tại các phiên tòa, ông B cũng vắng mặt không có lý do. Điều đó cho thấy ông B cũng không có thiện chí mong muốn đoàn tụ lại với bà Trang. Tòa án tiến hành xác minh về mâu thuẫn giữa Bà T và ông B thì theo ông Nguyễn Nhật T (cha ruột của ông B) cho rằng giữa Bà T và ông B thường xuyên cự cãi, không còn chung sống từ năm 2014 đến nay. Mặc dù bà Lê Thị T và ông Nguyễn Văn B chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1999 và có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật nhưng không đi đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, do đó không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của vợ chồng nên không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà T và ông B. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C là phù hợp nên chấp nhận.

[3] Về con chung: Nguyễn Hoàng N, sinh ngày 09/5/1999 đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị T trình bày không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí: Bà Lê Thị T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 5; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ các Điều 14, 51, khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Lê Thị T và ông Nguyễn Văn B.

2. Về con chung: Nguyễn Hoàng N, sinh ngày 09/5/1999 đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị T trình bày không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Lê Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số 0004116 ngày 16 tháng 10 năm 2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Trà Vinh.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho nguyên đơn có mặt tại phiên toà biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 24/02/2021 về ly hôn

Số hiệu:06/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về