Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 20 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 856/2020/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 168/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 127/2020/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị A, sinh năm 1978; thường trú: Số 33/11 khu phố T A, phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; chỗ ở: Số 295 đường Ng Tr Ph, khu phố Nh Đ 2, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Đinh Hồng Ph, sinh năm 1977; thường trú: Số 33/11 khu phố T A, phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Phạm Thị A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị A và anh Đinh Hồng Ph sau thời gian tìm hiểu khoảng 02 năm thì tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân Phường ML, quận Ph Nh, Thành phố Hồ Chí Minh, đến năm 2017 thì vợ chồng ly hôn. Năm 2020 thì vợ chồng đăng ký kết hôn lại, theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 84 do Ủy ban nhân dân phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương cấp ngày 29/7/2020. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống tại số 33/11 khu phố T A, phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Sau khi đăng ký kết hôn lại thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn cho đến nay. Nguyên nhân do vợ chồng thường xuyên cải vã, bất đồng quan điểm sống, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, anh Ph có quan hệ với người phụ nữ khác. Nay nguyên đơn chị A xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị A yêu cầu được ly hôn với anh Ph.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung tên Đinh Thụy Hoàng Ch, sinh ngày 06/9/2000 và Đinh Thanh Tr, sinh ngày 12/9/2014. Sau khi ly hôn, chị A yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đinh Thanh Tr và không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với cháu Đinh Thụy Hoàng Ch đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Đinh Hồng Ph: Tòa án đã triệu tập hợp lệ để cung cấp bản tự khai ngày 02/11/2020, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 13/11/2020; tham gia phiên tòa vào các ngày 29/12/2020 và ngày 20/01/2021 nhưng vắng mặt không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu của chị A và cũng không cung cấp tài liệu chứng cứ cho Tòa án.

- Tại biên bản xác minh nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị A và anh Ph do Tòa án tiến hành ngày 16/11/2020, chính quyền địa phương cung cấp thông tin như sau: Chị A và anh Ph trước khi nộp đơn khởi kiện xin ly hôn tại Tòa án chị A không yêu cầu chính quyền địa phương tổ chức hòa giải cơ sở. Quá trình chung sống thực tế mâu thuẫn giữa hai vợ chồng, vấn đề chăm sóc, nuôi dạy con chung như thế nào chính quyền địa phương không nắm rõ vì không thấy đại diện khu phố hay địa phương phản ánh hay cung cấp thông tin gì, đề nghị Tòa án giải quyết theo qui định của pháp luật.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:

Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa sơ thẩm Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật. Bị đơn không chấp hành quy định của pháp luật.

Về quan hệ hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng sống không hạnh phúc do mâu thuẫn kéo dài, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn và yêu cầu giải quyết về con chung là có cơ sở chấp nhận. Về tài sản chung và nợ chung nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào các ngày 29/12/2020 và ngày 21/01/2021 nhưng đều vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả các đương sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Năm 2020 chị Phạm Thị A và ông Đinh Quốc Ph tự nguyện tìm hiểu tiến đến hôn nhân, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 84, cấp ngày 29/7/2020 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

Chị A xác định trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau, anh Ph có quan hệ với người phụ nữ khác nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Ph. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh Ph đến làm việc nhưng đều vắng mặt không rõ lý do, anh Ph không đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đồng thời, anh Ph cũng không có văn bản thể hiện thiện chí đưa ra phương án hàn gắn mối quan hệ giữa anh với chị A, vì vậy có cơ sở xác định cuộc sống hôn nhân của chị A và anh Ph đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, việc chị A yêu cầu được ly hôn với anh Ph là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình nên có căn cứ chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung tên Đinh Thụy Hoàng Ch, sinh ngày 06/9/2000 và Đinh Thanh Tr, sinh ngày 12/9/2014. Hiện các con chung đang ở cùng với cha mẹ, nguyên đơn chị A yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đinh Thanh Tr, còn cháu Đinh Thụy Hoàng Ch đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét về mọi mặt của con chưa thành niên. Trong suốt quá trình tố tụng, mặc dù đã được Tòa án niêm yết các văn bản có nêu rõ yêu cầu của nguyên đơn về việc nuôi dưỡng con chung cho bị đơn nhưng bị đơn không có ý kiến phản đối gì. Xét thấy, cháu Trúc còn nhỏ, chị A là người chăm sóc nuôi dưỡng cháu hằng ngày. Vì vậy, Tòa án chấp nhận yêu cầu giao con chung Đinh Thanh Tr cho chị A nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2.3] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Phạm Thị A không yêu cầu anh Đinh Hồng Ph phải cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của chị A nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[3] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[4] Từ những phân tích nêu trên, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ cở chấp nhận. Đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương là phù hợp.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, 227, 238, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phạm Thị A đối với bị đơn anh Đinh Hồng Ph.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị A được ly hôn với anh Đinh Hồng Ph. (Theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 84 do Ủy ban nhân dân phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương cấp ngày 29/7/2020).

Về con chung: Anh Đinh Hồng Ph giao con chung tên Đinh Thanh Tr, sinh ngày 12/9/2014 cho chị Phạm Thị A trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Phạm Thị A không yêu cầu anh Đinh Hồng Ph phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau ly hôn, anh Đinh Hồng Ph có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh Ph thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

2. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thị A phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí về ly hôn được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0048769 ngày 23/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

4. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:06/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về