Bản án 06/2021/DS-ST ngày 30/03/2021 về tranh chấp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC LONG – TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 06/2021/DS-ST NGÀY 30/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Ngày 30 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phước Long, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 255/2019/TLST- DS ngày 09 tháng 12 năm 2019 về việc “tranh chấp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 85/2020/QĐXXST- DS ngày 07 tháng 8 năm 2020, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Đoàn Cẩm T, sinh năm 1984 Địa chỉ: Ấp N, xã Q, huyện HD, tỉnh Bạc Liêu.

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: bà Nguyễn Thị H – Luật sư văn phòng luật sư Nguyễn Thị H, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bạc Liêu.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị B, sinh năm 1981 Anh Phạm Văn H, sinh năm 1979 Địa chỉ: Ấp H, thị trấn P, huyện PL, tỉnh Bạc Liêu.

Người đại diện theo ủy quyền của anh H là chị Nguyễn Thị B, sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp H, thị trấn P, huyện PL, tỉnh Bạc Liêu (Theo văn bản ủy quyền ngày 10/3/2020)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hồ Thanh L, sinh năm 1979. Địa chỉ: Ấp N, xã Q, huyện HD, tỉnh Bạc Liêu.

Chị T, Luật sư H có mặt; các đương sự khác vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 09/11/2019, đơn khởi kiên sửa đổi, bổ sung ngày 28/11/2019 và các lời khai tiếp theo trong hồ sơ vụ án, cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Đoàn Cẩm T trình bày:

Chị Đoàn Cẩm T có tham gia 02 dây hụi do chị Nguyễn Thị B và anh Phạm Văn H làm chủ hụi:

y hụi thứ nhất: mở lần đầu ngày 27/4/2017 âm lịch, loại hụi 5.000.000đ, 01 tháng mở hụi 01 lần, có 31 phần (chưng) hụi, chị T tham gia 02 phần hụi.

Lần mở hụi thứ 28 nhằm ngày 27/6/2019 âm lịch, chị T bỏ hụi 6.200.000đ, hốt được số tiền 128.700.000đ (trong đó đã bù lỗ 02 phần hụi sống là 2.400.000đ, tiền hoa hồng 2.500.000đ, tiền đóng 02 phần hụi sống loại hụi 2.000.000đ là 1.400.000đ). Chị B và anh H đã đưa được 40.000.000đ, còn lại 88.700.000đ chưa giao tiền hụi.

Lần mở hụi thứ 29 nhằm ngày 27/7/2019 âm lịch, chị T bỏ hụi 8.160.000đ, hốt được số tiền 126.180.000đ (trong đó đã bù lỗ 02 phần hụi sống là 6.300.000đ, tiền hoa hồng 2.500.000đ, tiền 01 phần chết là 5.000.000đ). Chị B và anh H chưa giao tiền hụi.

Đến ngày 05/9/2019 âm lịch, anh H làm Biên bản thỏa thuận xác nhận nợ hụi, còn thiếu tiền hụi đối với 02 phần hụi mà chị T đã hốt là 214.880.000đ.

y hụi thứ hai: mở lần đầu ngày 24/6/2018 âm lịch, loại hụi 2.000.000đ, 01 tháng mở hụi 01 lần, có tất cả 28 phần hụi, chị T tham gia 02 phần hụi, chưa hốt hụi, đã đóng hụi sống 14 lần với số tiền thực đóng 12.970.000đ/phần x 02 phần là 25.940.000đ. Sau đó, chủ hụi ngưng khui hụi đến nay.

Tại đơn khởi kiện, chị T yêu cầu chị B và anh H trả số tiền hụi 270.880.000đ; tại phiên tòa chị T thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, chị T chỉ yêu cầu chị B, anh H trả số đã hốt hụi là 214.880.000đ và số tiền vốn đóng 02 phần hụi ngày 24/6/2018 âm lịch là 25.940.000đ, tổng cộng là 240.820.000đ và yêu cầu tính lãi theo mức lãi suất Nhà nước quy định từ ngày 09/11/2019 đến ngày xét xử.

Ngoài ra, chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết thêm vấn đề nào khác.

Chị Nguyễn Thị B là bị đơn và là người đại diện theo ủy quyền của anh Phạm Văn H trình bày:

Tại biên bản lấy lời khai ngày 02/01/2020, chị B thừa nhận chị T có tham gia chơi số dây hụi, số phần hụi trong mỗi dây hụi như chị T trình bày là đúng. Tại dây hụi mở lần đầu ngày 27/4/2017 âm lịch, chị T đã hốt hụi nhưng chị B chỉ mới giao được 40.000.000đ tiền hốt hụi, còn thiếu lại số tiền bao nhiêu thì không nhớ. Tại dây hụi mở lần đầu ngày 24/6/2018 âm lịch, loại hụi 2.000.000đ, chị T đã đóng hụi được 14 lần với số tiền bao nhiêu thì chị B không nhớ. Chị B yêu cầu được trả cho chị T số tiền tại 02 dây hụi B số tiền vốn đã đóng hụi.

Anh Hồ Thanh L trình bày: anh thống nhất với yêu cầu và lời trình bày của chị T, anh không bổ sung thêm.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ chị B, anh H tham dự phiên họp và phiên hòa giải; tuy nhiên chị B, anh H vắng mặt không có lý do. Tòa án lập biên bản không hòa giải được và đưa vụ án ra xét xử.

Tại kết luận giám định số 04/GĐ-2021 ngày 21/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bạc Liêu kết luận: chữ ký tên Phạm Văn H trên tài liệu cần giám định A (Biên bản thỏa thuận xác nhận nợ ngày 05/9/2019 âl) so với chữ ký của Phạm Văn H trên các tài liệu mẫu so sánh là do một người viết ra.

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày quan điểm tranh luận:

Nguyên đơn yêu cầu chị B và anh H trả số tiền được hốt hụi 214.880.000đ tại dây hụi mở lần đầu ngày 27/4/2017 âm lịch; yêu cầu trả số tiền vốn đã đóng 25.940.000đ tại dây hụi mở lần đầu ngày 24/6/2018 âm lịch; yêu cầu tính lãi từ ngày 09/11/2019 đến ngày xét xử theo quy định pháp luật. Tại kết quả giám định đã chứng minh được anh H thừa nhận thiếu và đồng ý trả số tiền được hốt hụi tại dây hụi mở lần đầu ngày 27/4/2017 âm lịch. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để buộc bị đơn trả số tiền 240.820.000đ và yêu cầu tính lãi theo mức lãi suất Nhà nước quy định từ ngày 09/11/2019 đến ngày xét xử.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Long trình bày quan điểm:

+ Về tố tụng: Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với đương sự: từ khi tham gia tố tụng đến nay, đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Đối với chị B và anh H chưa chấp hành khoản 15, 16 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung vụ án: chị T đã hốt hụi tại dây hụi ngày 27/4/2017 âm lịch và chị B chưa chung tiền hụi đủ, còn thiếu số tiền 214.880.000đ, việc này được chứng minh tại Bản cam kết ngày 07/8/2019 âm lịch do chị B ký tên và Biên bản thỏa thuận xác nhận nợ ngày 05/9/2019 do anh H ký tên.

Đối với dây hụi mở lần đầu ngày 24/6/2018 âm lịch, chị T và chị B thừa nhận chị T tham gia 02 phần hụi, đóng được 14 kỳ hụi sống, chị T có ghi lại số tiền đóng hụi từng lần và tổng số tiền đóng 02 phần hụi là 25.940.000đ; chị B không nhớ chị T đóng bao nhiêu tiền và cũng không có ý kiến gì đối với số tiền chị T đưa ra. Do đó, lời khai của chị T có cơ sở chấp nhận.

Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T để buộc anh H và chị B trả cho chị T, anh L số tiền 240.820.000đ và tiền lãi theo quy định pháp luật từ ngày 09/11/2019 đến ngày xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; sau khi nghe ý kiến phát biểu đề xuất của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận, nghị án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: chị T yêu cầu giải quyết tranh chấp hụi, bị đơn có địa chỉ thường trú tại huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phước Long theo quy định tại Điều 26, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, chị B, anh H, anh L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử chị B, anh H, anh L là phù hợp quy định tại Điều 228, 238 Bộ luật tố tụng dân sự. [3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[3.1] Tại dây hụi mở lần đầu ngày 27/4/2017 âm lịch:

Quá trình tố tụng, chị T và chị B thống nhất: chị T tham gia 02 phần hụi tại dây hụi này. Chị T xác định chị đã hốt hết 02 phần hụi, tuy nhiên chị B cho rằng chị T mới hốt 01 phần hụi, chị B mới giao cho chị T số tiền hốt hụi là 40.000.000đ, còn thiếu lại chị T bao nhiêu tiền thì không nhớ. Chị B chỉ đồng ý trả cho chị T B số tiền gốc đã đóng tại 02 phần hụi là 121.360.000đ. Chị B trình bày nhưng không đưa ra được chứng cứ để chứng minh cho lời trình bày của mình nên không có cơ sở chấp nhận.

Chị T xác định tại kỳ mở hụi thứ 28 ngày 27/6/2019 âm lịch, chị hốt hụi được số tiền 128.700.000đ, đến ngày 27/7/2019 âm lịch chị B mới chung cho chị được 40.000.000đ, chị yêu cầu giao số tiền hụi còn lại; do đó, chị B mới làm Bản cam kết đề ngày 07/8/2019 âm lịch, hứa đến ngày 27/8/2019 âm lịch sẽ chung đủ số tiền hốt hụi còn lại là 88.700.000đ cho chị T. Tại kỳ mở hụi thứ 29 ngày 27/7/2019 âm lịch, chị T hốt hụi được số tiền 126.180.000đ; tuy nhiên chị B không thực hiện nghĩa vụ giao hụi. Do đó, đến ngày 05/9/2019 âm lịch, anh H mới làm Biên bản thỏa thuận xác nhận nợ (Bút lục số 94) xác nhận còn nợ chị T số tiền hụi mà chị T đã hốt 02 phần hụi là 214.880.000đ và cam kết trả hàng tháng ít nhất là 5.000.000đ.

Tại kết luận giám định số 04/GĐ-2021 ngày 21/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bạc Liêu kết luận: chữ ký tên Phạm Văn H trên tài liệu cần giám định A (Biên bản thỏa thuận xác nhận nợ ngày 05/9/2019 âl) so với chữ ký của Phạm Văn H trên các tài liệu mẫu so sánh là do một người viết ra.

Do đó, có cơ sở chấp nhận chị T đã hốt 02 phần hụi, chị B và anh H chưa giao đủ số tiền được hốt hụi cho chị T là 214.880.000đ.

[3.2] Tại dây hụi mở lần đầu ngày ngày 24/6/2018 âm lịch:

Chị T và chị B thống nhất: chị T tham gia 02 phần hụi, đóng được 14 kỳ hụi sống, sau đó chị B ngừng khui hụi; chị T có ghi lại số tiền đóng hụi từng lần và tổng kết lại trong 14 kỳ đã đóng cho chị B tổng số tiền cho 02 phần hụi là 25.940.000đ. Chị B không nhớ chị T đóng bao nhiêu tiền và cũng không có ý kiến gì đối với số tiền chị T đưa ra. Do đó, lời khai của chị T có cơ sở chấp nhận.

[3.3] Tại đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, chị T yêu cầu chị B, anh H trả số tiền 270.880.000đ. Tại phiên tòa hôm nay, chị T thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, chị T chỉ yêu cầu anh H, chị B trả số tiền 240.820.000đ. Xét thấy, việc nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện là tự nguyện, phù hợp quy định tại Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự nên được chấp nhận.

[3.4] Xét yêu cầu tính lãi của chị T:

Tại khoản 2 Điều 23 Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định:

“Điu 23. Trách nhiệm của chủ họ do không giao hoặc giao không đầy đủ các phần họ cho thành viên được lĩnh họ Trường hợp đến kỳ mở họ mà chủ họ không giao các phần họ cho thành viên được lĩnh họ thì chủ họ có trách nhiệm đối với thành viên đó như sau:

2. Trả lãi đối với số tiền chậm giao cho thành viên được lĩnh họ theo quy định tại khoản 1 Điều 22 của Nghị định này”.

Xét thấy, chị T được lĩnh (hốt) hụi nhưng chị B chưa giao tiền lĩnh hụi cho chị T, cũng như chị B đình hụi thì có nghĩa vụ trả lại vốn gốc đã đóng cho các thành viên chơi hụi, trường hợp chị B không thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì chị B có nghĩa vụ trả lãi cho chị T từ ngày chậm giao tiền đến ngày Tòa án giải quyết. Chị B đình hụi vào tháng 8/2019 và chưa trả tiền cho chị T. Tuy nhiên, chị T yêu cầu tính lãi từ ngày 09/11/2019; đây là sự tự nguyện của đương sự, phù hợp quy định pháp luật nên được chấp nhận. Số tiền lãi được tính theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 là 10%/năm. Từ ngày 09/11/2019 đến ngày 30/3/2021 là 01 năm 04 tháng 21 ngày. Số tiền lãi được tính như sau: 240.820.000đ x 10%/năm x 01 năm 04 tháng 21 ngày = 33.514.116đ. Tổng cộng gốc và lãi là 274.334.116đ.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, buộc chị B và anh H có nghĩa vụ trả cho chị T, anh L số tiền 274.334.116đ.

[4] Xét đề nghị của kiểm sát viên là có căn cứ và phù hợp quy định pháp luật nên được chấp nhận.

[5] Xét quan điểm tranh luận của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là phù hợp như Hội đồng xét xử phân tích nêu trên nên được chấp nhận.

[6] Về án phí: Hoàn trả cho chị T số tiền tạm ứng án phí 6.772.000đ tại lai thu số 0004511 ngày 09/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phước Long.

Chị B, anh H phải nộp án phí dân sự có giá ngạch (274.334.116đ x 5%) là 13.716.705đ.

[7] Về chi phí giám định là 3.510.000đ, chị T đã dự nộp 5.000.000đ được chuyển thu tiền giám định 3.510.000đ, chị T đã được hoàn nhận lại số tiền 1.490.000đ tại phiếu chi ngày 23/3/2021. Buộc anh H, chị B nộp 3.510.000đ hoàn trả cho chị T.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, 147, 228, 238, 244 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ khoản 2 Điều 468, Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Căn cứ Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP, ngày 19 tháng 02 năm 2019 của chính phủ về họ, hụi, biêu, phường;

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đoàn Cẩm T đòi nợ hụi đối với chị Nguyễn Thị B, anh Phạm Văn H.

Buộc chị Nguyễn Thị B, anh Phạm Văn H có nghĩa vụ trả cho chị Đoàn Cẩm T và anh Hồ Thanh L số tiền 274.334.116đ (Hai trăm bảy mươi bốn triệu ba trăm ba mươi bốn ngàn một trăm mười sáu đồng).

2/ Về án phí: Hoàn trả cho chị T số tiền tạm ứng án phí 6.772.000đ tại lai thu số 0004511 ngày 09/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phước Long.

Chị B, anh H phải nộp án phí dân sự có giá ngạch là 13.716.705đ.

3/ Về chi phí giám định: buộc anh H, chị B nộp 3.510.000đ hoàn trả cho chị T.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

4/ Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2021/DS-ST ngày 30/03/2021 về tranh chấp hụi

Số hiệu:06/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về