Bản án 06/2021/DS-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ K, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 06/2021/DS-ST NGÀY 03/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã K, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 153/2020/TLDS-ST ngày 12 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2020/QĐXXDS-ST ngày 28 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1972.

Địa chỉ: Số 32, đường N, khu phố 2, phường 1, thị xã K, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Bà Phan Thị H (tên thường gọi là U), sinh năm 1967.

Địa chỉ: Ấp B, xã Tuyên Thạnh, thị xã K, tỉnh Long An.

- Người có quyền L, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Phước L, sinh năm 1967.

Địa chỉ: Ấp B, xã Tuyên Thạnh, thị xã K, tỉnh Long An.

Bà C có mặt; bà H và ông L vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim C, các tài liệu chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ và lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa, thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – Bà Nguyễn Thị Kim C trình bày: Ông Nguyễn Phước L và bà Phan Thị H là vợ cH. Vào ngày 12 tháng 7 năm 2019, bà cho bà H vay số tiền 50.000.000 đồng, bà H đã trả nhiều lần được tiền gốc 30.000.000 đồng. Vào ngày 30 tháng 10 năm 2019, bà cho bà H vay tiếp số tiền 20.000.000 đồng, bà H đã trả nhiều lần được tiền gốc 8.050.000 đồng. Cả hai lần vay này thì chỉ có bà H viết, ký hợp đồng vay tiền với thời hạn vay 300 ngày. Khi vay các bên thỏa thuận miệng với lãi suất là 3,5%/tháng. Khi đó chỉ có một mình bà H vay và nhận tiền, không có mặt ông L nên hai khoản nợ này không liên quan gì đến ông L. Bà đưa đủ 70.000.000 đồng tiền gốc cho bà H chứ không có nhận tiền chênh lệch 750.000 đồng, 1.250.000 đồng và bà cũng không nhận được của bà H tiền đóng tất cả 158.200.000 đồng và 200.000.000 đồng tiền đầu như lời trình bày của bà H. Từ khi vay đến nay, bà H trả cho bà nhiều lần được tổng cộng 38.050.000 đồng tiền gốc, chưa trả được khoản tiền lãi nào. Mục đích bà H vay tiền của bà để bồi thường tiền đất cho người ta nhưng bà không biết bà H có sử dụng đúng mục đích hay không. Khi vay bà H không cầm cố, thế chấp tài sản gì cho bà. Nay bà xác định chỉ khởi kiện yêu cầu bà H phải thực hiện nghĩa vụ trả cho bà tiền vay gốc còn lại 31.950.000 đồng và không yêu cầu tính lãi suất sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Ý kiến, đề nghị của bị đơn – Bà Phan Thị H trình bày: Vào ngày 12 tháng 02 năm 2019, bà có vay của bà C bên hội phụ nữ 20.000.000 đồng nhưng bà C nói tiền đầu của bà C là 750.000 đồng. Đợt sau, bà có vay bà C 50.000.000 đồng, bà C đưa cho bà 48.250.000 đồng. Cứ 10 ngày bà đóng 320.000 đồng, 01 tháng là 9.600.000 đồng. Bà đã thực hiện đến nay là 17 tháng, lãi lời nặng quá bà có than với bà Ngô Thị Thắm vợ ông Sáu Liên và con gái là Trần Thị Ánh Tuyết rằng bà đóng hết nổi rồi. Sự việc mới xảy ra đến nay, bà đóng tất cả là 158.200.000 đồng và 200.000.000 đồng tiền đầu.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần ra thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và đã tống đạt hợp lệ đối với ông L nhưng ông L không đến tham dự các phiên hòa giải theo quy định pháp luật. Đồng thời, ông L cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì và không gửi văn bản nêu ý kiến về việc bà C khởi kiện yêu cầu bà H phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo yêu cầu khởi kiện của bà C. Do đó, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Quan hệ pháp luật tranh chấp là hợp đồng vay tài sản, trong đó bị đơn là bà H có địa chỉ tại xã T, thị xã K, tỉnh Long An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã K theo quy định tại các Điều 26, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của ông L và bà H tại phiên tòa: Ông L và bà H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, nhưng ông L và bà H vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông L và bà H là phù hợp theo các Điều 177, 179, 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về lời trình bày của bà H cho rằng đã trả cho bà C tiền đầu 750.000 đồng, 1.250.000 đồng, đóng tất cả là 158.200.000 đồng và 200.000.000 đồng tiền đầu cho bà H: Tòa án đã ra quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ số 40/2020/QĐ-CCTLCC ngày 08 tháng 12 năm 2020 nhưng đến nay bà H không cung cấp được chứng cứ để chứng minh cho lời trình bày của bà H là có căn cứ và hợp pháp. Đồng thời, không được bà C thừa nhận nên Hội đồng xét xử không có căn để xem xét.

[4] Về yêu cầu khởi kiện của bà C chỉ yêu cầu bà H phải thực hiện nghĩa vụ trả cho bà C số tiền vay gốc 31.950.000 đồng là có chứng cứ chứng minh thể hiện qua hai hợp đồng cho vay tiền trả góp ngày 12 tháng 7 năm 2019, ngày 30 tháng 10 năm 2019 do bà H ký nhận nợ. Ban đầu bà C khởi kiện yêu cầu bà H và ông L phải có nghĩa vụ liên đới trả nợ cho bà C. Tuy nhiên sau đó, bà C xác định chỉ khởi kiện yêu cầu một mình bà H phải có nghĩa vụ trả nợ cho bà C. Do đó, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà C, chỉ buộc bà H phải thực hiện nghĩa vụ trả cho bà C số tiền gốc 31.950.000 đồng là có căn cứ phù hợp với các 463, 466 của Bộ luật dân sự.

[5] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của bà C được chấp nhận toàn bộ nên theo quy định tại các Điều 3, 6, 24, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bà H phải có nghĩa vụ chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với số tiền 31.950.000 đồng nộp sung ngân sách nhà nước. Bà C không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 147, 177, 179, 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 463, 466, 468 của Bộ luật dân sự; các Điều 3, 6, 12, 24, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim C, buộc bà Phan Thị H phải thực hiện nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị Kim C số tiền 31.950.000 đồng (ba mươi mốt triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi bên phải thi hành án thi hành xong khoản tiền trên, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

2. Về án phí:

2.1 Án phí của vụ án là 1.598.000 đồng (một triệu năm trăm chín mươi tám nghìn đồng). Buộc bà Phan Thị H phải có nghĩa vụ chịu 1.598.000 đồng (một triệu năm trăm chín mươi tám nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

2.2 Về tạm ứng án phí: Hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị Kim C 1.410.000 đồng (một triệu bốn trăm mười nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0009417 ngày 08 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã K.

3. Án xử công khai sơ thẩm có mặt đương sự, báo cho biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

451
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2021/DS-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:06/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã Kiến Tường - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về