Bản án 06/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng và đe dọa giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÌNH LẬP, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 06/2020/HS-ST NGÀY 21/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG VÀ ĐE DỌA GIẾT NGƯỜI

Ngày 21 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 04/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2020, đối với bị cáo:

Lù Xuân T, sinh ngày 12 tháng 6 năm 1964, tại xã B, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký thường trú: Thôn T, xã B, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Viên chức; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lù Kim D (đã chết); con bà: Lù Thị T; vợ: Vương Thị B; con: Có 03 con; tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị pháp luật xử lý; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/12/2019 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Anh Hoàng Văn H, sinh năm 1986 và chị Đinh Thị T, sinh năm 1986; nơi đăng ký thường trú: Thôn N, xã B, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lù Văn T, sinh năm 1988; nơi đăng ký thường trú: Thôn T, xã B, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 03/2018, Lù Xuân T, trên đường đi từ thôn H, xã B về nhà ở thôn T, xã B. Khi đến dốc K thuộc địa phận thôn Q, xã B thì dừng xe lại để đi vệ sinh, Lù Xuân T đi bộ lên phía bên phải cách đường khoảng 14,8m thì nhìn thấy một quả lựu đạn chày dài 15cm, vỏ bằng kim loại đường kính 5cm, cán nhựa đường kính 3cm. Lù Xuân T liền cầm quả lựu đạn mang ra cho vào cốp xe rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà và giấu quả lựu đạn dưới gầm giường ngủ trong phòng riêng của Lù Xuân T.

Khoảng đầu tháng 5 năm 2019, Nông Thị S, sinh năm 1992, là con dâu của Lù Xuân T đi cạo nhựa thông tại đồi M xã B, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Nông Thị S đặt bô khai thác nhựa thông được khoảng 3 ngày thì S gặp Hoàng Văn H và vợ là Đinh Thị T tại khu vực giáp ranh rừng của 2 gia đình. Hoàng Văn H nói với Nông Thị S là hàng cây giáp ranh khoảng 11 cây Nông Thị S đang cạo nhựa thông là của nhà Hoàng Văn H trồng và Hoàng Văn H đã đặt bô của Nông Thị S xuống đất. Nông Thị S trả lời là mới đến làm dâu nên không biết, mẹ chồng chỉ đến đâu thì khai thác đến đó, rồi tiếp tục trích nhựa thông trên số cây còn lại trên đồi thông của gia đình mình. Khoảng 11 giờ cùng ngày, trong lúc ăn cơm trưa cùng bố mẹ chồng là Lù Xuân T và Vương Thị B, Nông Thị S đã kể lại toàn bộ sự việc trên cho bố mẹ chồng nghe.

Sau khi nghe Nông Thị S kể lại sự việc gặp hai vợ chồng H và T khi đi trích nhựa thông, Lù Xuân T cho rằng số cây đó là của mình vì bản thân cùng vợ được trực tiếp đi phát và trồng nên Lù Xuân T nảy sinh ý định dùng quả lựu đạn nhặt được mang đến nhà H T để đe dọa với mục đích làm cho Đinh Thị T và Hoàng Văn H lo sợ sẽ bị đe dọa tính mạng mà không tranh chấp cây thông trích nhựa với nhà Lù Xuân T. Do sinh sống trên cùng xã và quen biết nhau, Lù Xuân T biết nhà H, T có hai vợ chồng và bốn đứa con, những ngày trong tuần trẻ con sẽ đi học, chỉ có vợ chồng H T ở nhà nên khoảng 07 giờ ngày 15/5/2019 Lù Xuân T lấy 01 tờ giấy kẻ ô ly từ quyển sổ có sẵn của gia đình ngồi vào bàn uống nước tại phòng khách và dùng bút bi viết lên tờ giấy nội dung: “mày có ngày sẽ biết” rồi đi ra gian bán hàng tạp hóa của gia đình lấy 01 túi nilon màu hồng, sau đó Lù Xuân T đi vào phòng ngủ và lấy 01 đoạn cây, T dùng tay phải cầm cây gạt quả lựu đạn ra. T dùng tờ giấy có dòng chữ “mày có ngày sẽ biết” gói quả lựu đạn lại rồi cho vào túi nilon, quấn tròn túi nilon rồi đi ra cất vào cốp xe mô tô biển kiểm soát 12D1 - 027.14 dựng ở ngoài sân và một mình điều khiển xe mô tô đến Trạm y tế xã B để làm việc. Khoảng 08 giờ cùng ngày, Lù Xuân T một mình điều khiển xe môtô đến nhà Hoàng Văn H tại thôn N, xã B, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Khi tới nơi Lù Xuân T dừng xe bên ngoài đối diện rồi quan sát xung quanh, không thấy có ai ở nhà, ngoài đường cũng không có người đi lại, T mở cốp xe lấy túi nilon đựng tờ giấy và quả lựu đạn đã chuẩn bị sẵn đi đến trước cổng nhà Hoàng Văn H, T luồn tay qua khe hở của cổng ném túi nilon bên trong có tờ giấy và quả lựu đạn vào sân nhà H. Thực hiện xong hành vi Lù Xuân T điều khiển xe quay lại Trạm Y tế xã B, huyện L để tiếp tục làm việc. Khoảng 10 giờ cùng ngày, Hoàng Văn H và vợ là Đinh Thị T đi làm về thì phát hiện trước cửa nhà có 01 túi nilon, bên trong có một tờ giấy kẻ ô ly ghi dòng chữ “mày có ngày sẽ biết” và một quả lựu đạn, lo sợ có người đe dọa đến tính mạng của mọi người trong gia đình nên đã trình báo Công an huyện Đình Lập để giải quyết.

Từ khi bị người khác đặt lựu đạn trước cửa nhà đe dọa, sinh hoạt của gia đình anh Hoàng Văn H và chị Đinh Thị T bị xáo trộn: Trước khi bị đe dọa, vào buổi sáng chị T là người đưa con đi học, buổi trưa nếu chị T về kịp thì đón tất cả các con, nếu chị T về muộn thì con gái lớn là Hoàng Ngọc A sẽ tự đi bộ về nhà. Từ khi sự việc xảy ra lo sợ cho tính mạng, sức khỏe của các con bị đe dọa vợ chồng chị dặn con gái lớn tan học thì chờ bố mẹ đến đón, không được tự đi bộ về nhà. Do cơ quan chức năng chưa tìm được ra thủ phạm, vẫn lo sợ cho tính mạng và sức khỏe của mọi người trong gia đình, đầu tháng 8 năm 2019 để đảm bảo an ninh cho gia đình, tránh bị người khác tiếp tục thực hiện hành vi đe dọa, hai vợ chồng bàn nhau và đã thuê lắp 1 bộ camera gồm 03 mắt camera và 01 đầu thu với giá 5.5000.000đ, (năm triệu năm trăm nghìn đồng).

Sau khi thực hiện hành vi, ngày 24/12/2019 Lù Xuân T đến Công an huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn để tự thú.

Tại bản Kết luận giám định số 2848/C09-P2 ngày 29/5/2019 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Vật giám định là lựu đạn chày, có vỏ bằng kim loại và cán bằng nhựa. Quả lựu đạn còn đủ các bộ phận và gây nổ được. Khi nổ bán kính sát thương bằng mảnh của vỏ từ 15m đến 20m. Đối chiếu với mục d, Khoản 2, Điều 3 Luật số 14/2017/QH14 của Quốc hội về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ thì quả lựu đạn trên thuộc vũ khí quân dụng.

Tại bản kết luận giám định số: 39/KLGĐ-PC09 ngày 30/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận chữ viết trên tài liệu cần giám định thu giữ tại hiện trường vụ án ghi nội dung “mày có ngày sẽ biết” với chữ viết của Lù Xuân T là do cùng một người viết ra.

Vật chứng của vụ án đã thu giữ gồm có:

- 01 (một) quả lựu đạn chày dài 15cm, phần thân bằng kim loại dài 9,5cm, đường kính 5cm; phần tay cầm dài 5,5cm, có nắp nhựa đường kính 3cm. Hiện đang gửi tại Kho quân khí/phòng kỹ thuật/ Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, Model: A33W, màu trắng, màn hình cảm ứng. Số Emei1:863442030891675; Số Emei2: 863442030891667. Máy gắn 01(một) sim Viettel mặt sau có các dãy số: 8984;0480;0001;4292;148.

- 01 (một) sim Viettel mặt sau có các dãy số: 8984;0480;0001;4292;147 (điện thoại của Lù Xuân T).

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát: 12D1- 027.14. Số máy: 5C63582227; Số khung: C630BY582174. - 01 (một) chứng nhận Đăng ký xe mô tô số: 008713. Biển số đăng ký: 12D1-027.14. Số máy: 5C63582227; Số khung: C630BY582174. Đăng ký do phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 13/2/2012. Tên chủ xe: Lù Văn T, địa chỉ: Thôn T, xã B, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.

- 01 (một) đoạn cây dài 41cm, đường kính 1,5cm.

Về bồi thường thiệt hại: Anh Hoàng Văn H và chị Đinh Thị T không có yêu cầu bồi thường gì, nhưng Lù Xuân T vẫn tác động gia đình nộp tiền tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L để bù đắp tổn thất tinh thần cho anh H, chị T. Ngày 23/3/2020 Lù Văn T1 em trai của Lù Xuân T đã nộp 5.000.000đ tiền khắc phục hậu quả tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L (biên lai thu tiền số AA/2015/0002569).

Cáo trạng số 05/CT-VKS ngày 25/3/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập đã truy tố bị cáo Lù Xuân T về các tội: Đe dọa giết người và Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, theo điểm a khoản 2 Điều 133 và khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Lù Xuân T khai nhận toàn bộ hành vi như đã khai tại cơ quan điều tra. Nguyên nhân dẫn đến đe dọa giết người là từ việc bị hại và gia đình bị cáo có tranh chấp cây thông, bị hại công nhận lời khai của bị cáo tại phiên tòa là đúng.

Kết thúc phần xét hỏi Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng truy tố, sau khi phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện, đánh giá về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Lù Xuân T phạm các tội: Đe dọa giết người và Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, theo điểm a khoản 2 Điều 133 và khoản 1 Điều 304 của Bộ luật hình sự. Áp dụng các điểm b, s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 38, 55 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Lù Xuân T: Đối với tội Đe dọa giết người, phạt tù từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Đối với tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng xử phạt từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Tổng hợp hình phạt từ 36 tháng đến 48 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu và tiêu hủy:

- 01 (một) đoạn cây dài 41cm, đường kính 1,5cm. Tịch thu bàn giao cho Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn xử lý theo quy định:

- 01 (một) quả lựu đạn chày dài 15cm, phần thân bằng kim loại dài 9,5cm, đường kính 5cm; phần tay cầm dài 5,5cm, có nắp nhựa đường kính 3cm. Hiện đang gửi tại Kho quân khí/phòng kỹ thuật/ Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn.

Trả cho Lù Xuân T:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, Model: A33W, màu trắng, màn hình cảm ứng. Số Emei1: 863442030891675; Số Emei2: 863442030891667. Máy gắn 01(một) sim Viettel mặt sau có các dãy số: 8984;0480;0001;4292;148.

- 01 (một) sim Viettel mặt sau có các dãy số: 8984;0480;0001;4292;147 (điện thoại của Lù Xuân T).

Trả cho anh Lù Văn T:

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát: 12D1- 027.14. Số máy: 5C63582227; Số khung: C630BY582174.

- 01 (một) chứng nhận Đăng ký xe mô tô số: 008713. Biển số đăng ký: 12D1-027.14. Số máy: 5C63582227; Số khung:C630BY582174. Đăng ký do phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 13/2/2012. Tên chủ xe: Lù Văn T, địa chỉ: Thôn T, xã B, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584; 585; 586; 590 của Bộ luật Dân sự; đề nghị ghi nhận: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại số tiền là 5.000.000 đồng. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Sau khi nghe lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo Lù Xuân T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét một số nội dung sau: Bị cáo có nhân thân tốt, sinh sống ở vùng đặc biệt khó khăn nhận thức có phần hạn chế, bị cáo đã ăn năn hối lỗi, ra tự thú, đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt và đổi hình phạt tiền đối với bị cáo Bị hại cơ bản nhất trí với đề nghị của Kiểm sát viên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: Bị cáo thực hiện hành vi là nghiêm trọng, gây thiệt hại về sức khỏe, tinh thần cho bị hại nhưng tại phiên tòa bị cáo đã có thái độ hối lỗi, tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại nên bị hại đã chấp nhận bồi thường và đề nghị xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.

Kiểm sát viên đối đáp bảo vệ quan điểm, cho rằng các tình tiết giảm nhẹ đã được áp dụng đủ, mức hình phạt đề nghị là phù hợp, không có căn cứ cho bị cáo hưởng mức án nhẹ hơn. Trong quá trình tranh tụng Kiểm sát viên đã căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi của bị cáo, viện dẫn đầy đủ các quy định của pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

Lời nói sau cùng bị cáo đã thành thật hối lỗi và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Lù Xuân T khai nhận thực hiện hành vi như đã nêu ở phần trên, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các biên bản khám nghiệm hiện trường, kết quả giám định, phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Các chứng cứ đó phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm, hành vi. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định bị cáo thực hiện hành vi như sau:

[3] Khoảng tháng 03/2018, Lù Xuân T nhặt được 01 quả lựu đạn tại dốc K thuộc địa phận thôn Q, xã B, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Lù Xuân T mang quả lựu đạn về nhà cất giấu ở dưới gầm giường trong phòng ngủ tại nhà của Lù Xuân T ở thôn T, xã B, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.

[4] Khoảng 08 giờ ngày 15/5/2019 Lù Xuân T có hành vi ném 01 túi nilon màu hồng bên trong có quả lựu đạn chày được bọc bằng tờ giấy kẻ ô ly có ghi dòng chữ “mày có ngày sẽ biết” vào sân nhà anh Hoàng Văn H và chị Đinh Thị T tại thôn N, xã B, huyện L, tỉnh Lạng Sơn với mục đích làm cho vợ chồng anh H, chị T lo sợ tính mạng bị đe dọa mà không tranh chấp cây thông với gia đình Lù Xuân T.

[5] Xuất phát từ mâu thuẫn giữa gia đình bị cáo với bị hại và khi thấy con dâu nói việc anh Hoàng Văn H và chị Đinh Thị T ngăn cản không cho cạo nhựa làm cho bị cáo bực tức nên đã nảy sinh ý định dùng quả Lựu đạn là vũ khí quân dụng bị cáo đã tàng trữ từ trước để đe dọa giết người.

[6] Bị cáo Lù Xuân T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do vậy có đủ khả năng để nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng và dùng quả lựu đạn là loại vũ khí nguy hiểm để thực hiện hành vi đe dọa giết người với lỗi cố ý là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn thực hiện. Bị cáo thực hiện hành vi đe dọa giết người chủ đích nhằm vào anh Hoàng Văn H và chị Đinh Thị T làm cho bị hại hoang mang lo sợ, cuộc sống gia đình bị đảo lộn, tính chất, mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng. Như vậy Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Lù Xuân T phạm tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng và phạm tội Đe dọa giết người, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 304 và điểm a khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập truy tố bị cáo theo các tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng pháp luật.

[7] Hành vi phạm tội của bị cáo Lù Xuân T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý vũ khí quân dụng của Nhà nước, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ và quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người, là một trong những quyền quan trọng được pháp luật bảo vệ. Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương. Do vậy cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo bằng pháp luật hình sự, nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và có tác dụng phòng ngừa chung, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

 [8] Để có mức án phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo, ngoài việc xem xét, đánh giá tính chất mức độ, nguyên nhân, hậu quả của hành vi như đã phân tích ở phần trên, cũng cần phải xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo để áp dụng hình phạt cho tương xứng, cụ thể: Về nhân thân: Bị cáo Lù Xuân T có nhân thân tốt; về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; về tình tiết giảm nhẹ: Lù Xuân T có 04 tình tiết giảm nhẹ là: Tích cực bồi thường, khắc phục hậu quả; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo ra đầu thú và bố đẻ của bị cáo là ông Lù Kim D được Chủ tịch nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ, theo quy định tại các điểm b, s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[9] Tại phiên tòa: Kiểm sát viên đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp nên được chấp nhận. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo các tình tiết đã phân tích ở phần trên đều được chấp nhận. Ngoài ra bị cáo còn đề nghị xử phạt ở mức dưới khung hình phạt, thay đổi hình phạt sang phạt tiền là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Lù Xuân T đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, với số tiền là 5.000.000đ (năm triệu đồng), bị cáo không bị ép buộc, sự tự nguyện của bị cáo không trái đạo đức, không gây thiệt hại cho người khác. Tuy bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nhưng hành vi phạm tội đã gây ra thiệt hại cả về vật chất lẫn tinh thần do đó cần chấp nhận sự tự nguyện của bị cáo, giao số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) cho bị hại để bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả. Tại phiên tòa, bị hại đã chấp nhận tự nguyện bồi thường của bị cáo Lù Xuân T.

[11] Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) đoạn cây dài 41cm, đường kính 1,5cm. Vì không có giá trị sử dụng.

[12] Tịch thu bàn giao cho Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn xử lý theo quy định: 01 (một) quả lựu đạn chày dài 15cm, phần thân bằng kim loại dài 9,5cm, đường kính 5cm; phần tay cầm dài 5,5cm, có nắp nhựa đường kính 3cm. Vì là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, thuộc vũ khí quân dụng.

[13] Trả cho Lù Xuân T: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, Model: A33W, màu trắng, màn hình cảm ứng. Số Emei1: 863442030891675; Số Emei2: 863442030891667. Máy gắn 01(một) sim Viettel mặt sau có các dãy số: 8984; 0480;0001; 4292;148. 01 (một) sim Viettel mặt sau có các dãy số: 8984; 0480; 0001; 4292; 147 (điện thoại của Lù Xuân T). Vì không liên quan đến tội phạm.

[14] Trả cho anh Lù Văn T: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát: 12D1- 027.14. Số máy: 5C63582227; Số khung: C630BY582174. 01 (một) chứng nhận Đăng ký xe mô tô số: 008713. Biển số đăng ký: 12D1-027.14. Số máy: 5C63582227; Số khung: C630BY582174. Đăng ký do phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 13/2/2012. Tên chủ xe: Lù Văn T, vì chủ sở hữu tài sản trên không có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc phạm tội.

[15] Về án phí: Bị cáo Lù Xuân T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật, vì chịu án phí là trách nhiệm của người bị kết án. Bị cáo không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[16] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 304 và điểm a khoản 2 Điều 133; các điểm b, s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55; các Điều 38, 50 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ khoản 1 Điều 584; khoản 1 Điều 585; khoản 1 Điều 586; khoản 3 Điều 589; khoản 1 Điều 590 của Bộ luật Dân sự và khoản 1, các điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 3; khoản 1 Điều 6; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lù Xuân T phạm tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng và tội Đe dọa giết người.

Xử phạt bị cáo Lù Xuân T 01 (một) năm tù về tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, Xử phạt bị cáo Lù Xuân T 02 (hai) năm tù về tội Đe dọa giết người, Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 24/12/2019.

2. Về bồi thường thiệt hại: Công nhân sự tự nguyện của bị cáo Lù Xuân T, bị cáo bồi thường toàn bộ thiệt hại do sức khỏe, tài sản bị xâm phạm cho bị hại là anh Hoàng Văn H và chị Đinh Thị T với tổng số tiền: 5.000.000đ, (năm triệu đồng). Xác nhận gia đình bị cáo đã nộp đủ số tiền trên tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L. (Biên lai thu tiền số AA/2015/0002569 ngày 23/3/2020).

3. Về vật chứng:

Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) đoạn cây dài 41cm, đường kính 1,5cm.

Tịch thu bàn giao cho Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn xử lý theo quy định:

01 (một) quả lựu đạn chày dài 15cm, phần thân bằng kim loại dài 9,5cm, đường kính 5cm; phần tay cầm dài 5,5cm, có nắp nhựa đường kính 3cm. Hiện đang gửi tại Kho quân khí/phòng kỹ thuật/ Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn. Trả cho Lù Xuân T:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, Model: A33W, màu trắng, màn hình cảm ứng. Số Emei1:863442030891675; Số Emei2: 863442030891667. Máy gắn 01(một) sim Viettel mặt sau có các dãy số: 8984;0480;0001;4292;148.

- 01 (một) sim Viettel mặt sau có các dãy số: 8984; 0480; 0001; 4292;147 (điện thoại của Lù Xuân T).

Trả cho anh Lù Văn T:

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát: 12D1-027.14. Số máy: 5C63582227; Số khung: C630BY582174.

- 01 (một) chứng nhận Đăng ký xe mô tô số: 008713. Biển số đăng ký: 12D1-027.14. Số máy: 5C63582227; Số khung:C630BY582174. Đăng ký do phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 13/2/2012. Tên chủ xe: Lù Văn T, địa chỉ: Thôn T, xã B, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.

(Vật chứng lưu giữ tại kho Chi cục Thi hành án dân sự huyện L theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Đình Lập và Chi cục Thi hành án dân sự huyện L ngày 26/3/2020).

3. Về án phí: Buộc bị cáo Lù Xuân T, phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

494
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng và đe dọa giết người

Số hiệu:06/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đình Lập - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về