Bản án 06/2020/HSST ngày 05/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG CHÀ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 06/2020/HSST NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05/5/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 06/2020/HSST ngày 27/3/2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2020/HSST- QĐ ngày 22 tháng 4 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn T; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1990, tại thành phố Đ, tỉnh Đ; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản K, xã M, thành phố Đ, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Làm ruộng, nương; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Lò Văn T – Sinh năm : 1970, con bà: Lò Thị B– Sinh năm : 1971; Vợ: Lò Thị B – Sinh năm: 1987; Bị cáo có 01 con, sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Trước ngày 03/01/2020, bị cáo chưa có hành vi vi phạm gì. Ngày 03/01/2020 bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phái chất ma túy, ngày 04/01/2020 bị tạm giữ, ngày 07/01/2020 bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh Đ cho đến nay, có mặt.

Người có Q lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Bà: Lò Thị B - Sinh năm: 1987; Địa chỉ: Bản N, xã H, huyện Đ, tỉnh Đ, vắng mặt không có lý do.

- Ông: Vũ Huy Q – Sinh năm 1982; Địa chỉ: thị Trấn C, huyện H, tỉnh N, vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ ngày 03/01/2020, Lò Văn T điều khiển xe máy BKS 17M4- 2776 từ lán công trình đang thi công đường vào xã Huổi Mí, huyện Mường Chà đến chỗ để máy xúc để trông máy. Trên đường đi, T gặp một người đàn ông, qua trao đổi T đã mua của người này 05 gói heroine với giá 250.000 đồng. Sau khi mua được ma túy T lấy 01 gói heroine được gói bằng mảnh nilon màu xanh dùng bật lửa ga hơ đầu nilon và gắn vào phần lông mu phía trên bộ phận sinh dục của T, vì thấy khó chịu nên 04 gói heroine còn lại T cầm trên tay trái của mình rồi điều khiển xe máy quay lại chỗ để máy xúc. Đến 19 giờ 20 phút cùng ngày, trên đường đi đến bản H, xã H, huyện M thì T bị tổ công tác công an huyện M yêu cầu dừng xe kiểm tra, T đã thả gói ma túy trên tay trái của T xuống đất, tiến hành kiểm tra trên người T thì phát hiện thêm 01 gói heroine mà T dính ở phần lông mu phía trên bộ phận sinh dục của mình. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ 05 gói heroine của T có khối lượng 0,311 gam.

Cơ quan điều tra đã thu giữ: 0,311 gam heroine trích toàn bộ mẫu gửi giám định, hoàn lại 0,18 gam; 01 chiếc xe máy BKS 17M4-2776, 01 chiếc điện thoại di động.

Trong quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Chà đã trả lại cho Vũ Huy Q chiếc xe máy BKS 17M4-2776 là chủ sở hữu hợp pháp; trả lại cho vợ bị cáo (Lò Thị B) 01 chiếc điện thoại di động không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng vào hồi 16 giờ 00 phút, ngày 04/01/2020 tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Chà, xác định 05 gói chất bột nén màu trắng đục thu giữ của Lò Văn T nghi heroine có khối lượng là 0,311 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 83/GĐ-PC09 ngày 11/01/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: 05 (năm) mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn T gửi đến giám định là chất ma túy: Loại Heroine; Khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Văn T là 0,311 gam; Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018”.

Tại cáo trạng số 08/CT–VKS-MC ngày 27/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên truy tố Lò Văn T ra trước Tòa án nhân dân huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên để xét xử về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự .

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên giữ Q công tố tại phiên tòa phát biểu quan điểm luận tội giữ nguyên quan điểm quyết định truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá chứng cứ, tính chất, hành vi, hậu quả mà bị cáo đã gây ra, theo quy định của pháp luật hiện hành, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; Xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 18 tháng đến 21 tháng tù; Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm, kinh tế khó khăn nên đề nghị miễn không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS.

- Tang vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy: 0,18 gam Heroine còn lại sau khi trừ mẫu giám định.

Trong quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Chà thu giữ và đã trả lại cho Vũ Huy Q chiếc xe máy BKS 17M4-2776 là chủ sở hữu hợp pháp; trả lại cho vợ bị cáo (Lò Thị B) 01 chiếc điện thoại di động không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp đúng quy định của pháp luật nên không đề nghị gì trong vụ án này.

- Về án phí: Bị cáo là dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên đề nghị miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Trong hồ sơ còn thể hiện:

Lò Văn T khai số heroine bị cáo có được là mua của một đàn ông đi đường T không biết họ tên địa chỉ ở đâu nên không không có cơ sở để điều tra làm rõ.

Sau khi nghe lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm được trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Xét về hành vi của bị cáo: Qua tranh tụng và xét hỏi tại phiên tòa bị cáo Lò Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang vào hồi 19 giờ 30 phút ngày 03/01/2020, tại khu vực bản Huổi Mí 1, xã Huổi Mí, huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên, Lò Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,311 gam Heroine, mục đích sử dụng cho bản thân; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ vào hồi 20 giờ ngày 03/01/2020; Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng vào hồi 16 giờ 00 phút, ngày 04/01/2020; Bản kết luận giám định số 83/GĐ-PC09 ngày 11/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

[2]. Xét hành vi tàng trữ 0,311 gam Heroine với mục đích mua sử dụng cho bản thân của bị cáo T là nguy hiểm cho xã hội nghiêm trọng, bởi hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc Q quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý. Nhà nước ta nghiêm cấm, mua bán, tàng trữ..., trái phép các chất ma tuý dưới bất kỳ hình thức nào đều phải bị xử lý nghiêm trước pháp luật. Bị cáo nhận thức và hiểu rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy cho bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Vậy, với hành vi và khối lượng ma túy nêu trên của bị cáo T đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/ BLHS.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS quy định:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c)Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine,MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam".

Vậy, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Lò Văn T về tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sinh ra được bố mẹ nuôi cho ăn học hết 12/12, sau đó xây dựng gia đình cùng với chị Lò Thị B và ở nhà lao động sản xuất tại bản K, xã M, thành Phố Đ. Ngày 03/01/2020 bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 04/01/2020, bị tạm giữ. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4]. Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng: như chúng ta đã biết ma túy là loại độc dược nó hủy hoại sức khỏe của con người, làm suy thoái phẩm chất đạo đức nếu ai sử dụng nó, làm khuynh gia bại sản gia đình tan nát, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân của bị cáo, không những đã trực tiếp hủy hoại sức khỏe của bị cáo mà tiếp tay cho các đối tượng khác mua bán trái phép chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương, mặt khác bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nên Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là cần thiết, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt sống có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời đây cũng là điều kiện thuận lợi để bị cáo từ bỏ ma túy. Với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng mức khởi điểm mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị về mức hình phạt là phù hợp.

[5]. Xét về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy không việc làm, kinh tế khó khăn nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS.

[6]. Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 0,311 gam heroine sau khi trừ mẫu giám định còn lại 0,18 gam là vật Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

Số heroine bị cáo có được bị cáo khai là mua của một đàn ông đi đường, bị cáo không biết họ tên địa chỉ của người đó ở đâu làm gì nên không có cơ sở để điều tra làm rõ đối tượng đó trong vụ án này. Trong quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Chà thu giữ và đã trả lại cho Vũ Huy Q chiếc xe máy BKS 17M4-2776 là chủ sở hữu hợp pháp; trả lại cho vợ bị cáo (Lò Thị B) 01 chiếc điện thoại di động không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp của Cơ quan điều tra là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7]. Về án phí: Bị cáo là dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

[8]. Xét về hành vi và các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường Chà, Điều Tra viên, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Chà, từ lúc khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đảm bảo về hình thức, đúng về thẩm Q, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (04/01/2020).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong ban đầu, 01 mảnh giấy màu trắng, 04 (bốn) mảnh nilon màu xanh, 01 (một) mảnh nilon màu vàng; 01 (một) phong bì bưu điện niêm phong: Mẫu vật hoàn lại kèm theo kết luận giám định số 83/GĐ-PC09 ngày 11/01/2020 của phòng PC09 Công an tỉnh Điện Biên (trong phong bì có 0,18 gam heroine).

(Toàn bộ tang vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 14 giờ 20 phút, ngày 27/3/2020 giữa Công an huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên và Chi cục thi hành án dân sự huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên).

3. Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 1 Điều 21 Nghị quyết số: 326/2016 của UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

*Áp dụng Điều 331 và 333/BLTTHS, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (05/5/2020), Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo những gì liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2020/HSST ngày 05/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:06/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Chà - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về