Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 30/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 06/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 6 năm 2020, tại Hội trường A - Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 113/ 2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm 2020, về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số: 16/2020/QĐST- HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:Chị Lã Ngọc Y; sinh năm 1989.

2. Bị đơn:Anh Hà Ngọc V, sinh năm: 1981 Cùng địa: số 272 tổ 3, ấp 5, xã L, huyện TN, tỉnh Đồng Nai (chị Yến có mặt, anh Vân vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 10 tháng 02 năm 2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn Lã Ngọc Y trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Y và anh V được tự nguyện tìm hiểu, yêu thương, có tổ chức cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện TN, tỉnh ĐN, đến ngày 31/12/2007 thì được cấp giấy chứng nhận kết hôn, đây là hôn nhân lần đầu của chị Y.

Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẩn, do anh V sống không chung thủy có quan hệ với người phụ nữ khác, anh thường xuyên chơi đá gà gây ra nợ nần, dẫn đến vợ chồng bất hòa gây gỗ làm cho đời sống chung không hạnh phúc.

Tháng 01 năm 2020 thì vợ chồng sống ly thân cho đến cho đến ngày hôn nay, trong thời gian sống ly thân vợ chồng có bàn bạc đoàn tụ, nhưng không thành.

Trước Tòa án chị Y xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh V, yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V.

Về con chung: Vợ chồng có 02 (hai) con chung tên Hà Ngọc Bảo H; sinh ngày 30/6/2008; Hà Ngọc Bảo N; sinh ngày 02/8/2010; Khi ly hôn chị Y có yêu cầu nuôi dưỡng cháu H, đồng ý giao cháu N cho anh V chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời chị Y không chấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ riêng: không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra chị Y không trình bày gì thêm.

* Bị đơn anh Hà Ngọc V trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Về thời gian và hoàn cảnh kết hôn theo như chị Y khai là đúng; anh V và chị Y được tự nguyện tìm hiểu, yêu thương, có tổ chức cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện TN, tỉnh ĐN, đến ngày 31/12/2007 thì được cấp giấy chứng nhận kết hôn, đây là hôn nhân lần đầu của anh V.

Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẩn theo như chị Y khai có phần đúng, anh V có đá gà, có gây nợ nhưng anh tự giải quyết, riêng việc quen người phụ nữ khác là không có, do anh V thường ngồi uống cà phê nói chuyện cùng với mấy người tiếp viên nữ bị bạn bè chụp hình sau đó giử hình qua cho chị Y thấy, nên chị Y nghi ngờ anh sống không chung thủy, dẫn đến gây gỗ đời sống chung vợ chồng không hạnh phúc. Anh V biết việc làm của anh là sai nên đã sửa đổi không còn đá gà, không đi uống cà phê, hiện nay anh V đang nuôi 02 con nhỏ, không còn ra ngoài đi chơi nữa.

Tháng 01/2020 thì vợ chồng sống ly thân cho đến ngày hôn nay, trong thời gian sống ly thân vợ chồng cũng bàn bạc đoàn tụ nhưng không thành.

Trước Tòa án chị Y xin ly hôn anh V không thuận tình vì anh còn thương chị Y.

Về con chung: Chị Y khai là đúng, vợ chồng có 02 (hai) con chung tên Hà Ngọc Bảo H; sinh ngày 30/6/2008; Hà Ngọc Bảo N; sinh ngày 02/8/2010; trường hợp ly hôn anh V có yêu cầu nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu chị Y cấp dưỡng nuôi con.

Hiện nay anh V có công việc ổn định làm mổ heo thuê, lương tháng 12.000.000đ (mười hai triệu) đủ điều kiện nuôi con tốt.

Về tài sản chung: Vợ chồng không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ riêng: không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Nguyên đơn chị Lã Ngọc Y khởi kiện tranh chấp ly hôn; bị đơn anh Hà Ngọc V có nơi cư trú tại địa chỉ, số 272 tổ 3, ấp 5, xã L, huyện TN, tỉnh ĐN nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Bị đơn anh Hà Ngọc V đã được Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử vào ngày 07/6/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 16/QĐST- HNGĐ vào ngày 19/6/2020 cho anh V ký nhận trực tiếp, thông báo cho anh V biết thời gian mở lại phiên tòa vào lúc 08 giờ ngày 30/6/2020, nhưng anh V vắng mặt không có lý do nên hội đồng xét xử áp dụng Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 giải quyết theo thủ tục chung, xét xử vắng mặt anh V.

[2] Xét quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân giữa chị Y và anh V được xác lập trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn và được cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận nhận kết hôn vào ngày 31/12/2007 nên hôn nhân của chị Y và anh V được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống xảy ra mâu thuẫn chị Y khởi kiện xin ly hôn anh V. Xét thời điểm hiện tại Luật hôn nhân năm 2014 đang có hiệu lực, việc kết hôn của chị Y và anh V cũng thỏa mãn điều kiện kết hôn theo quy định tại điều 8 của luật hôn nhân gia đình năm 2014 nên hội đồng xét xử áp dụng luật hôn nhân năm 2014 để giải quyết.

Tại phiên tòa chị Y khai hôn nhân giữa chị và anh V không hạnh phúc nguyên nhân do anh V sống không chung thủy, mặt khác không quan tâm chăm sóc gia đình, dẫn đến vợ chồng gây gỗ anh V đánh đập chị.

Tháng 01/2020 vợ chồng sống ly thân đến ngày hôm nay.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 28/4/2020 bị đơn anh Hà Ngọc V khai, anh công nhận lời khai của chị Y có một phần đúng trước đây anh V thường đi chơi không quan tâm và chăm sóc gia đình, nhưng nay anh V đã sửa đổi, anh có việc làm ổn định, anh còn thương chị Y, không đồng ý ly hôn.

Trên cơ sở lời của chị Y, anh V hội đồng xét xử nhận định Anh V xác định còn thương chị Y không đồng ý ly hôn, Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ và mở phiên tòa xét xử nhưng anh V không hợp tác, vắng mặt không có lý do, điều đó cho thấy anh V không thiện chí muốn hòa giải đoàn tụ cùng với chị Y. Mặt khác theo biên bản xác minh ngày 27/5/2020, địa phương cung cấp thông tin hôn nhân của vợ chồng chị Y và anh V không hạnh phúc, hiện nay anh, chị không còn chung sống với nhau.

Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, vợ chồng chung sống phải tôn trọng, thương yêu chăm sóc lẫn nhau, nhưng hôn nhân giữa chị Y và anh V không đáp ứng được tiêu chí trên, vợ chồng thường xuyên gây gỗ, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không hạnh phúc. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Y cho chị được ly hôn với anh V là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

[3] Xét về nuôi con chung: Chị Y và anh V có lời khai thông nhất, anh chị chung sống có 02 con chung Hà Ngọc Bảo H; sinh ngày 30/6/2008 ; Hà Ngọc Bảo N; sinh ngày 02/8/2010, chị Y có yêu cầu nuôi cháu H, đồng ý giao cháu N cho anh V nuôi dưỡng, tạm thời chị Y không cấp dưỡng nuôi con. Qua các lời khai anh V có tại hồ sơ vụ án, anh có tranh chấp về con chung yêu cầu nuôi cháu H, cháu N.

Xét yêu cầu của anh V là không có cơ sở chấp nhận bỡi lẽ theo quy định tại khoảng 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 con trên 7 tuổi phải xem xét đến nguyện vọng của con chung, cháu H có nguyện vọng muốn sống cùng với mẹ là chị Y, cháu N có nguyện vọng sống với ba là anh V nên việc anh Vân có yên cầu nuôi cháu H không có cơ sở chấp nhận. Do đó hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Y giao cháu H cho chị Y nuôi dưỡng, giao cháu N cho anh V nuôi dưỡng, tạm thời chị Y và anh V không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Chị Y, anh V được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản, vì lợi ích của con chung khi cần thiết các đương sự được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Xét về chia tài sản và nợ chung: Chị Y và anh V không tranh chấp nên hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về nợ riêng : Chị Y và anh V không có yêu cầu giải quyết nên hội đồng xét xử không điều chỉnh.

[6] Về án phí: Buộc chị Y phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí tại biên lai số 0007910 ngày 24/02/2020 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, chị Y đã nộp đủ án phí

[7] Về quyền kháng cáo: Các bên đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1, khoản 2 Điều 227; Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 8; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; khoản 1 và khoản 2 Điều 81, khoản 2 và khoản 3 Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lã Ngọc Y và anh Hà Ngọc V 2. Về nuôi con chung: Giao cho chị Lã Ngọc Y chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Hà Ngọc Bảo H; sinh ngày 30/6/2008; giao cho anh V chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Hà Ngọc Bảo N; sinh ngày 02/8/2010. Tạm thời chị Y và anh V không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Chị Y, anh V được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản, vì lợi ích của con chung khi cần thiết các đương sự được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

2. Về chia tài sản; nợ chung; nợ riêng: Không giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lã Ngọc Y phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm khấu trừ từ tiền tạm ứng án phí sang nộp án phí theo biên lai thu số 0007910 ngày 24/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Chị Y đã nộp đủ án phí.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 30/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:06/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về