Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 16/01/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 06/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 16 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 08/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2020/QĐXX-ST ngày 03 tháng 01 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Tạ Quang C - Sinh năm 1973.

Địa chỉ: Số nhà 12/91, phố Nam S, phường Nam N, thành phố Thanh H, tỉnh Thanh Hóa.

- Bị đơn: Chị Dương Thị L - Sinh năm 1977.

ĐKHKTT: Số nhà 12/91, phố Nam S, phường Nam N, thành phố Thanh H, tỉnh Thanh Hóa Hiện đang chấp hành án tại Đội 21, phân trại số 4, Trại giam số 5, Cục C10, Bộ công an thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa có mặt anh C, chị L đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, được bổ sung tại bản tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, anh Tạ Quang C trình bày:

- Về hôn nhân: Anh và chị Dương Thị L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Nam N, thành phố Thanh Hóa vào năm 2002. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị Long làm ăn thua lỗ, nợ nần không có khả năng thanh toán dẫn đến kinh tế gia đình gặp khó khăn, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Mâu thuẫn của anh chị đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Đến năm 2018, chị L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và bị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phạt 12 năm tù. Hiện nay chị L đang chấp hành án tại Đội 21, phân trại số 4, Trại giam số 5, Cục C10, Bộ công an thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

Nay, anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị L

- Về con chung: vợ chồng anh có 02 con chung là cháu Tạ Thị Tâm Đ, sinh ngày 29/4/2003 và cháu Tạ Phương V, sinh ngày 10/11/2009. Ly hôn anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con và không yêu cầu chị Lđóng góp tiền nuôi con chung với anh.

Về tài sản, công nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai, chị Dương Thị L trình bày:

- Về hôn nhân: chị L có trình bày thống nhất với anh C về thời gian, điều kiện kết hôn của vợ chồng chị. Nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng chị là do vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm và hay cãi nhau. Nên chị đồng ý ly hôn với anh C.

- Về con chung: Vợ chồng chị có hai con chung như anh C trình bày. Hiện nay chị đang phải đi chấp hành án nên không có khả năng nuôi con nên chị đồng ý để anh C nuôi hai con và chị không đóng góp tiền nuôi con chung với anh C.

- Về tài sản, công nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Thu thập chứng cứ tại địa phương phản ánh: Quá trình anh C và chị L sinh sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị L nợ tiền không có khả năng trả dẫn đến kinh tế gia đình gặp khó khăn, vợ chồng thường xuyên xảy ra va chạm. Năm 2018, chị L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Hiện nay chị L đang đi chấp hành án còn anh Long và các con vẫn đang sinh sống tại địa phương. Nay anh C làm đơn khởi kiện ly hôn chị L, quan điểm của địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Anh Công và chị L có hai con chung như anh chị trình bày.

Về tài sản, công nợ của anh chị: Địa phương không biết nên không cung cấp được thông tin gì cho Tòa án.

Tại phiên tòa, anh C giữ nguyên yêu cầu ly hôn; về con chung: anh đề nghị Tòa án giao cháu Đ và cháu V cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, anh không yêu cầu chị L cấp dưỡng tiền nuôi con chung với anh; về tài sản công nợ chung: anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn, bị đơn đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật, bị đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

Về yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của anh C, giao cháu Đ và cháu V cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng, chị L không phải đóng góp nuôi con chung với anh C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Đây là tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn và bị đơn có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố Thanh Hóa. Việc Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa thụ lý, giải quyết là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Bị đơn là chị Dương Thị L đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt chị. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về hôn nhân: Anh C và chị L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị L nợ nần không có khả năng thanh toán, vợ chồng bất đồng quan điểm sống dẫn đến thường xuyên cãi nhau. Đến năm 2018, chị L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, bị Tòa án xử phạt 12 năm tù, hiện nay chị đang chấp hành án tại Đội 21, phân trại số 4, Trại giam số 5, Cục C10, Bộ công an thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

Thu thập chứng cứ tại địa phương cũng thể hiện, đời sống vợ chồng giữa anh C và chị L có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng đúng như anh chị trình bày và hiện nay chị L đang đi chấp hành án. Hội đồng xét xử nhận thấy hôn nhân giữa anh C và chị L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu của anh C, cho anh được ly hôn chị L.

[4]. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Anh C và chị L có hai con chung là cháu Tạ Thị Tâm Đ, sinh ngày 29/4/2003 và cháu Tạ Phương V, sinh ngày 10/11/2009. Ly hôn anh C có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con và không yêu cầu chị L đóng góp tiền nuôi con chung với anh. Chị L cũng đồng ý giao cả hai con cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng, chị không đóng góp tiền nuôi con chung với anh C. Việc giao con cho ai nuôi dưỡng cần xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy, chị L hiện nay đang đi chấp hành án, không có thu nhập, không có điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con hàng ngày. Anh C có công việc và có thu nhập ổn định. Kể từ khi chị L đi chấp hành án cho đến nay, cháu Đ và cháu V vẫn do anh C nuôi dưỡng và đảm bảo tốt về mọi mặt cho các cháu. Cháu Đ và cháu V cũng có nguyện vọng xin được ở với bố. Căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, có căn cứ để chấp nhận nguyện vọng của anh C là được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục hai con, không yêu cầu chị L đóng góp tiền nuôi con chung với anh.

[5]. Về tài sản, công nợ: Anh C, chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6]. Về án phí: Anh C phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 271, khoản 1 điều 273, Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 .

Về hôn nhân: Xử cho anh Tạ Quang C được ly hôn chị Dương Thị L.

Về con chung: Anh C và chị L có hai con chung là cháu Tạ Thị Tâm Đ, sinh ngày 29/4/2003 và cháu Tạ Phương V, sinh ngày 10/11/2009. Ly hôn giáo cháu Đ và cháu V cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng, chị L không phải đóng góp tiền nuôi con chung với anh C.

Chị L có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Về tài sản, công nợ: Anh C và chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Anh Tạ Quang C phải nộp 300.000 án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0000573 ngày 02/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (anh C đã nộp đủ án phí). Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc ngày niêm yết) bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 16/01/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:06/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về