Bản án 06/2019/HS-ST ngày 28/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

BẢN ÁN 06/2019/HS-ST NGÀY 28/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

 Ngày 28 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:02/2019/TLST–HS ngày 09 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:04/2019/QĐXXST–HS ngày 14 tháng 01 năm 2019, đối với bị cáo:

Phan Văn H (tên gọi khác: Đen), sinh năm 1984 tại: Bà Rịa Vũng Tàu Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: ấp CC, xã LD, huyện ĐĐ, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn B (1959) và bà Trần Thị A (1959);

Tiền án: Ngày 28/6/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc xử phạt 03 năm, 06 tháng tù giam về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án số 56/2013/HSST ngày 28/6/2013 của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc;

Tiền sự: Không.

Người làm chứng: Bà Phạm Thị C, sinh năm: 1999 Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 21/8/2018, tại nhà nghỉ HD, thuộc ấp A, xã B, huyện C, tỉnh BR-VT, bị cáo Phan Văn H (Đen) đã có hành vi tàng trữ 07 (bảy) gói ma túy đá, nên bị công an xã Phước Thuận phối hợp với Đồn biên phòng xã Phước Thuận lập biên bản phạm tội quả tang.

Trong quá trình điều tra bị cáo khai nhận, số ma túy đá nói trên bị cáo mua của một người tên Nam (không rõ họ tên và địa chỉ), mục đích mua về là để sử dụng.

Căn cứ vào kết luận giám định số 249/GĐMT-PC54(Đ4) ngày 29/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xác định: Mẫu chất kết tinh không màu-trong suốt chứa trong 07 (bảy) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an xã Phước Thuận huyện Xuyên Mộc, tỉnh BR – VT, cùng các chữ ký ghi họ tên: Phan Văn H, Phạm Thị C, Lâm Văn G, Phạm Hải Đ và Nguyễn Văn T, gởi đến giám định có khối lượng 3,3102gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu. Đồng thời, khẳng định số ma túy bị thu giữ là của bị cáo, bị cáo mua từ một người tên Nam ở Long Điền (bị cáo không biết họ tên và địa chỉ của người này).

Vật chứng của vụ án gồm: 01 (một) phong bì màu trắng, được niêm phong có ký hiệu vụ số 249/GĐMT-PC54(Đ4) ngày 29/8/2018, bên trong có chứa ma tuý còn lại sau giám định và 01 (một) bóp da màu đen nâu;

Đối với đối tượng tên Nam (không rõ lai lịch) là người bán ma túy cho bị cáo hiện cơ quan Cảnh sát điều tra đang tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận: đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc trình bày ý kiến luận tội:

+ Giữ nguyên quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc tại bản Cáo trạng số 04/CT-VKS-XM ngày 07/01/2019 đối với bị cáo Phan Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

+ Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phan Văn H (Đen) từ 02 năm, 06 tháng tù đến 03 năm tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam.

+ Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng, không nhằm mục đích bán lại kiếm lời nên không có thu nhập vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì màu trắng, được niêm phong có ký hiệu vụ số 249/GĐMT-PC54(Đ4) ngày 29/8/2018, bên trong có chứa ma tuý còn lại sau giám định và 01 (một) bóp da màu đen nâu.

Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc theo quyết định chuyển vật chứng số 02/QĐ-VKS-XM ngày 07/01/2019 chờ xử lý.

- Bị cáo thống nhất với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không tự bào chữa, không phát biểu ý kiến tranh luận gì với Kiểm sát viên.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận biết hành vi của bị cáo có tội và đồng ý với quyết định truy tố trong cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc. Tuy nhiên, bị cáo kinh xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội tự cải tạo, hòa nhập với xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Xuyên Mộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với lời khai của người làm chứng, thể hiện: Do bị cáo nghiện ma túy từ trước nên ngày 21/8/2018, bị cáo đã gặp đối tượng tên Nam (không rõ lai lịch) để mua ma túy về tàng trữ sử dụng.

Đến 08 giờ 00 phút cùng ngày, khi bị cáo đang ở tại nhà Nghỉ HD thuộc xã Phước Thuận, bị cáo đã bị Công an xã Phước Thuận và Đồn biên phòng xã Phước Thuận bắt quả tang đang tàng trữ 07 (bảy) gói ma túy loại loại Methamphetamine, có khối lượng 3,3102gam để sử dụng. căn cứ vào Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ, về việc “Ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất” thì chất Methamphetamine là chất nằm trong Danh mục II, STT 67.

Từ những phân tích nêu trên cho thấy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bộ sung năm 2017. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận cáo trạng truy số 04/CT-VKS-XM ngày 07/01/2019 của của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước; còn gây ra những tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội; gây mất trật tự trị an tại địa phương; là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm xã hội khác.

Bị cáo là người đã trưởng thành, bản thân bị cáo nghiện ma túy, hơn ai hết bị cáo phải biết tác hại của ma túy, cũng như quy định của pháp luật là nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ trái phép các chất ma túy nhưng vì phục vụ nhu cầu nghiện hút của bị cáo mà bị cáo đi vào con đường phạm tội.

Để tăng cường biện pháp đấu tranh, phòng chống tội phạm ma túy tại địa phương nói chung, cũng như để giáo dục riêng đối với bị cáo. Xét thấy, cần tuyên xử bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo; cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, đồng thời nhằm giáo dục phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cần áp dụng các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[6] Về hình phạt bổ sung: xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, bị cáo tàng trữ ma túy không nhằm mục đích bán kiểm lời mà chỉ để sử dụng nên không phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

[7] Về xử lý vật chứng vụ án: 01 (một) phong bì màu trắng, được niêm phong có ký hiệu vụ số 249/GĐMT-PC54(Đ4) ngày 29/8/2018, bên trong có chứa ma tuý còn lại sau giám định là chất nhà nước cấm lưu hành và 01 (một) bóp da màu đen nâu là tài sản của bị cáo, bị cáo không có nhu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn H (Đen) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bộ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Phan Văn H (Đen) 02 (hai) năm, 06 ( sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/8/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì màu trắng, được niêm phong có ký hiệu vụ số 249/GĐMT-PC09(Đ4) ngày 29/8/2018 (bên trong phong bì có chứa ma tuý còn lại sau giám định và 01 (một) bóp da màu đen nâu).

(Vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc đang quản lý theo quyết định chuyển vật chứng số 02/QĐ-VKS-XM ngày 07/01/2019).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 23, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Phan Văn H (Đen) phải chịu 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HS-ST ngày 28/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:06/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về