Bản án 06/2019/HS-ST ngày 12/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT – TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 06/2019/HS-ST NGÀY 12/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 12 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 05/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2019; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Phong V, sinh năm: 1978; Tên gọi khác: Thum

Nơi cư trú: ấp P, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam

Trình độ văn hóa: Lớp 2/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Con ông: Nguyễn Văn M, sinh năm 1949 và bà Nguyễn Thị Ngọc A, sinh năm 1953; Anh (chị) em ruôt: gôm 05 ngươi, nhỏ nhất sinh năm 1989, lớn nhất sinh năm 1976, bị can là ngươi con thứ hai trong gia đình; Bị cáo có vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1979; Con: 03 đứa, lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2012. Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/9/2018 cho đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

Người bị hại:

- Ông Nguyễn Văn L – sinh năm 1975 (Vắng mặt)

- Ông Nguyễn Văn X – Sinh năm 1981 (Có mặt)

Cùng địa chỉ: ấp , xã M, huyện H, tỉnh Kiên Giang.

- Ông Trần Văn M - Sinh năm 1957 (Vắng mặt)

Địa chỉ: ấp T, xã T1, huyện C, tỉnh Hậu Giang

- Ông Phan Thành N – Sinh năm 1988 (Vắng mặt)

Địa chỉ: ấp T, xã P, thành phố R, tỉnh Kiên Giang

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Ông: Nguyễn Văn T – Sinh năm 1976 (Vắng mặt)

Địa chỉ: ấp T, xã P, thành phố R, tỉnh Kiên Giang

Ni làm chứng Ông Lê Ngọc H– Sinh năm 1965 (Vắng mặt)

Địa chỉ: ấp R, xã B, huyện G, tỉnh Kiên Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Phong V sinh sống bằng nghề soi cá và bắt chuột vào ban đêm trên các tuyến sông, rạch, bằng phương tiện xuồng loại Composite hiệu HUYNA màu xanh dài 4,5 mét và máy xăng hiệu RATO. Trong quá trình đi soi cá V phát hiện nhiều vỏ, xuồng của người dân để ở cặp bờ kênh và không có người trông coi nên V nãy sinh ý định trộm cắp tài sản để sử dụng và bán lấy tiền tiêu xài. Trong thời gian từ tháng 3/2018 đến ngày 21/9/2018 Vđã thực hiện trộm cắp tài sản gồm vỏ, xuồng, máy. Cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng tháng 3/2018 (khoảng 19 giờ) V đi soi cá bằng phương tiện xuồng, máy của mình, V đi từ nhà thuộc ấp Phú Hội, xã Tân Hội, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang, khi đến khu vực kênh 500 thuộc tổ 7, ấp Tràm Dưỡng, xã Mỹ Phước, huyện Hòn Đất thì phát hiện 01 chiếc xuồng Composite màu trắng – xanh, dài 4,5 mét của ông Nguyễn Văn X đậu cặp bờ kênh không có người trông coi nên V nãy sinh ý định trộm cắp chiếc xuồng trên. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, V bơi xuồng đến cặp xuồng của ông X rồi tháo dây cho chiếc xuồng của ông X trôi theo dòng nước, khi xuồng trôi được khoảng 1000 mét (so với vị trí ban đầu) thì V điều khiển xuồng, máy của mình đến rồi kéo chiếc xuồng của ông X về nhà mình.

Tại kết luận định giá tài sản số 06 ngày 11/9/2019 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự huyện Hòn Đất kết luận: Một xuồng Compusite màu trắng – xanh, dài 4,5 mét có giá trị 2.250.000 đồng.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 19 giờ ngày 17/4/2018 V đi soi cá bằng xuồng, máy của mình, khi đến khu vực kênh 5 thuộc tổ 6, ấp Phước Tân, xã Mỹ Phước, huyện Hòn Đất thì phát hiện 01 chiếc xuồng loại Compusite màu trắng – xanh, dài 4,7 mét của ông Phan Thành N (xuồng N mượn của ông Nguyễn Văn T) đang đậu cặp bờ kênh không có người trong coi nên V nãy sinh ý định trộm cắp chiếc xuồng trên. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, V bơi xuồng đến cặp xuồng của ông N rồi tháo dây để xuồng trôi theo dòng nước, khi xuồng trôi được khoảng 1500 mét (so với vị trái ban đầu) thì V điều khiển xuồng, máy của mình đến kéo chiếc xuồng của ông N về nhà mình.

Tại kết luận định giá tài sản số 05 ngày 10/01/2019 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự huyện Hòn Đất kết luận: Một xuồng Compusite màu trắng – xanh, dài 4,7 mét có giá trị 1.910.000 đồng.

Vụ thứ ba: Vào khoảng tháng 8/2018 V đi soi cá bằng xuồng, máy của mình (lúc khoảng 19 giờ) khi đến khu vực kênh 6,5 thuộc tổ 6, ấp Phước Thái, xã Mỹ Phước, huyện Hòn Đất thì phát hiện 01 chiếc xuồng loại Compusite màu trắng – xanh, dài 4,7 mét của ông Trần Văn M đang đậu cặp bờ kênh không có người trong coi nên V nãy sinh ý định trộm cắp chiếc xuồng trên.Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, V bơi xuồng của mình đến cặp xuồng của ông M rồi tháo dây để xuồng trôi theo dòng nước, khi xuồng trôi được khoảng 700 mét (so với vị trái ban đầu) thì V điều khiển xuồng, máy của mình đến kéo chiếc xuồng của ông Mở về nhà mình.

Tại kết luận định giá tài sản số 04 ngày 09/01/2019 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự huyện Hòn Đất kết luận: Một xuồng Compusite màu trắng – xanh, dài 4,7 mét có giá trị 2.340.000 đồng Vụ thứ tư: Vào khoảng 19 giờ ngày 21/9/2018 V đi soi cá bằng xuồng, máy của mình khi đến khu vực sông Kiên Hảo thuộc tổ 7, ấp Tràm Dưỡng, xã Mỹ Phước, huyện Hòn Đất thì phát hiện 01 chiếc vỏ loại Compusite màu trắng – xanh, dài 7,7 mét của ông Nguyễn Văn L đang đậu cặp bờ kênh không có người trong coi nên V nãy sinh ý định trộm cắp chiếc vỏ trên.Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, V bơi xuồng đến cặp vỏ của ông L rồi tháo dây để vỏ trôi theo dòng nước, khi vỏ trôi được khoảng 500 mét (so với vị trí ban đầu) thì V điều khiển xuồng, máy đến kéo chiếc vỏ của ông L về nhà mình, rồi V đem chiếc vỏ trên đến xã Bàn Thạch, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang để bán thì bị phát hiện và bắt giữ cùng với tang vật.

Tại kết luận định giá tài sản số 41 ngày 01/10/2018 của Hội đồng thẩm định giá trong Tố tụng hình sự huyện Hòn Đất kết luận: Một vỏ Compusite dài 7,7 mét có giá trị là: 5.520.000 đồng. (Chiếc vỏ đã trả lại cho ông Nguyễn Văn L là chủ sở hữu) Về vật chứng cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Hòn Đất đã thu giữ (Thu tại nhà của Nguyễn Phong V):

- 01 (một) xuồng loại Composite màu xanh – trắng hiệu HUYNA (HNC) dài 4m70, rộng 0,79m (đã qua sử dụng) - (Đã trả lại cho ông Nguyễn Văn T là chủ sở hữu)

- 02 (hai) xuồng Composite màu xanh trắng hiệu HUYNA (HNC) dài 4,50m, rộng 0,79m (đã qua sử dụng) – Đã trả lại cho ông Trần Văn M và ông Nguyễn Văn X là chủ sở hữu)

- 01 (Một) máy xăng có giàn sắt xi gắn liền với nhau. Đầu máy màu đen, không rõ nhãn hiệu (đã qua sử dụng)

- 01 (một) máy xăng hiệu HINOTA, có giàn sắt xi gắn liền với nhau (đã qua sử dụng)

- 01 (một) đầu máy xăng không rõ nhãn hiệu, máy cũ không còn sử dụng được và 01 giàn sắt xi máy xăng

- 01 (Một) đầu bò bơm nước (Loại bơm đẩy) kích thước 64cmx28cm và 01 cái đầu bò bơm nước (loại bơm hút) kích thước 50cmx33cm (đã qua sử dụng)

- 01 (một xuồng Composite) hiệu HUYNA, màu xanh, dài 4,50m, rộng 0,79m và 01 máy xăng hiệu RATO, bình xăng màu đỏ có chữ RATO, mặt nạ phía trước có chữ 200cc, gắn liền với nhau (láp máy dài 1m55, chân vịt 03 cánh bằng nhôm).

Tại bản cáo trạng số 49/CT-VKS, ngày 05/10/2018 của Viện kiểm sát N dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Nguyễn Phong V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng vàđề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểmi, s khoản 1Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù giam.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Văn L; Nguyễn Văn X; Trần Văn M; Phan Thành N (trả cho Nguyễn Văn T) là người bị hại trong vụ án đã nhận lại được tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì khác nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1, điểm a, khoản 2 Điều 106 BLTTHS Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một xuồng Composite) hiệu HUYNA, màu xanh, dài 4,50m, rộng 0,79m và 01 máy xăng hiệu RATO, bình xăng màu đỏ có chữ RATO, mặt nạ phía trước có chữ 200cc, gắn liền với nhau (láp máy dài 1m55, chân vịt 03 cánh bằng nhôm). Đây là tài sản của Nguyễn Phong V, V sử dụng làm công cụ phương tiện phạm tội.

Đi với 01 máy xăng hiệu HINOTA có giàn sắt xi; 01 máy xăng không rõ nhãn hiệu và 02 đầu bơm nước. Đây là tài sản của Nguyễn Phong V do không liên quan đến vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Hòn Đất đã trả lại cho V là chủ sở hữu là phù hợp với quy định của pháp luật nên đề nghị hội đồng xét xử miễn xét.

Ngoài 04 vụ trộm cắp tài sản trên V còn khai nhận: Vào tháng 3/2018 Nguyễn Phong V thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc vỏ Compusite tại bờ kênh 5 Máy Cày, thuộc ấp Tà keo Ngọn, xã Phi Thông, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang rồi bán lại cho Nguyễn Văn Phong với giá 1.500.000 đồng (V chưa lấy tiền). Sau khi V bị bắt, Phong đã tự nguyện giao nộp chiếc xuồng trên cho Công an xã Phi Thông, thành phố Rạch Giá. Vụ án này Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hòn Đất đã ra công văn yêu cầu Công an thành phố Rạch Giá thụ lý vụ việc trên và chuyển về cho Công an huyện Hòn Đất để điều tra xử lý. Tuy nhiên, Công an xã Phi Thông, thành phố Rạch Giá không chuyển vụ án nên vụ việc trên công an huyện Hòn Đất không tiến hành điều tra trong vụ án này;

Ngoài ra, V còn khai nhận đã thực hiện 06 lần trộm cắp tài sản gồm: 02 chiếc xuồng Compusite và 04 đầu máy dùng để bơm nước (không nhớ thời gian và địa điểm). Tuy nhiên, đến nay chưa xác định được bị hại và không thu giữ được các tài sản trộm cắp. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hòn Đất tiếp tục điều tra làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Ti phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố được công bố tại phiên tòa.

Li nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án: Bị cáo đã biết việc làm của mình là sai trái và vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòn Đất, Điều tra viên; Viện kiểm sát N dân huyện Hòn Đất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Ti phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng mà viện kiểm sát đã truy tố như sau: Trong khoảng thời gian từ tháng 3/2018 đến ngày 21/9/2018, tại xã Mỹ Phước, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang, Nguyễn Phong V lợi dụng đêm tối đã lén lút thực hiện trót lọt 04 vụ trộm cắp tài sản là xuồng (vỏ) của các ông Nguyễn Văn L; Nguyễn Văn X; Trần Văn M và Phan Thành N. Theo kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hòn Đất, tổng giá trị tài sản mà V trộm cắp là 12.020.000 đồng.

Lời khai của bị cáo tại phiên Tòa hôm nay phù hợp với lời khai củangười người bị hại, và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Phong V đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát N dân huyện Hòn Đất đã truy tố bị cáo Nguyễn Phong V là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Phong V là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người trưởng thành có đầy đủ năng lực hành vi và trí tuệ, bị cáo phải hiểu biết rằng quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, bất kỳ ai xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật đều bị xử lý nghiêm. Nhưng do lười biếng không chịu lao động, không chịu làm ăn chân chính mà đi tìm kiếm xem ai có tài sản quản lý sơ hở thì trộm cắp để bán lấy tiền phục vụ cho bản thân, từ đó dẫn đến bị cáo phạm tội như ngày hôm nay, hậu quả từ hành vi trộm cắp của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của những người bị hại, gây tác động xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, nên Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi của bị cáo gây ra, [4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là “Phạm tội 02 lần trở lên”

[5]Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i,s khoản 1 điều 51 BLHS, Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:Ông Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn X, Trần Văn M, Phan Thành N là người bị hại trong vụ án đã nhận lại được tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì khác nên nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét [7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hòn Đất đã trả lại cho ông Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn X, Trần Văn M, Phan Thành N những tài sản mà V đã trộm cắp;Trả lại tài sản cho V do không liên quan đến hành vi phạm tội là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét Đối với 01 (một xuồng Composite) hiệu HUYNA, màu xanh, dài 4,50m, rộng 0,79m và 01 máy xăng hiệu RATO, bình xăng màu đỏ có chữ RATO, mặt nạ phía trước có chữ 200cc, gắn liền với nhau (láp máy dài 1m55, chân vịt 03 cánh bằng nhôm). Đây là tài sản của Nguyễn Phong V, V sử dụng làm công cụ phương tiện phạm tội nên Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[8]Đối với lời khai bị cáo còn thực hiện 06 lần trộm cắp tài sản gồm: 02 chiếc xuồng Compusite và 04 đầu máy dùng để bơm nước (không nhớ thời gian và địa điểm). Do chưa xác định được bị hại và không thu giữ được các tài sản trộm cắp nên chưa có căn cứ xử lý, đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hòn Đất tiếp tục điều tra làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phong V (Thum) phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phong V (Thum) 09 (Chín) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/9/2018.

2i với lời khai bị cáo còn thực hiện 06 lần trộm cắp tài sản gồm: 02 chiếc xuồng Compusite và 04 đầu máy dùng để bơm nước (không nhớ thời gian và địa điểm). Do chưa xác định được bị hại và không thu giữ được các tài sản trộm cắp nên chưa có căn cứ xử lý, đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hòn Đất tiếp tục điều tra làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

3. Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khon 1, điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một xuồng Composite) hiệu HUYNA, màu xanh, dài 4,50m, rộng 0,79m và 01 máy xăng hiệu RATO, bình xăng màu đỏ có chữ RATO, mặt nạ phía trước có chữ 200cc, gắn liền với nhau (láp máy dài 1m55, chân vịt 03 cánh bằng nhôm). Đây là tài sản của Nguyễn Phong V sử dụng làm công cụ phương tiện phạm tội.

4.Về án phí:áp dụng khoản 2 điều 135, khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH quy định về lệ phí án phí Tòa án; Bị cáo Nguyễn Phong V (Thum) phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, riêng người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HS-ST ngày 12/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:06/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòn Đất - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về