Bản án 06/2019/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 06/2019/HS-ST NGÀY 05/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 18/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2019/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Cà Văn Đ (tên gọi khác : không), sinh ngày 01 tháng 01 năm 1986 tại huyện Mường La , tỉnh Sơn La ; nơi ĐKNKTT và chô ơ hiên nay : Bản H, xã M, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc:Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Cà Văn U, sinh năm 1937 và bà Cà Thị L, sinh năm 1942; bị cáo có vợ là chị Quàng Thị K, sinh năm 1990 và 01 con sinh năm 2010; tiền án: 01 tiền án tại bản án số 80/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 bị TAND huyện Mường La, tỉnh Sơn La xử 07 (bảy) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18 tháng 12 năm 2018 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 20 phút ngày 18/12/2018, tổ công tác Công an phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 4, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La, phát hiện và bắt quả tang Cà Văn Đ đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy màu trắng có dòng kẻ bên trong có chứa cục, bột màu trắng (Đ khai là Heroine cất giữ để sử dụng). Ngoài ra còn tạm giữ: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu xanh đen, có 01 sim có số thuê bao 0338.406.540, đã qua sử dụng.

Quá trình điều tra, Cà Văn Đ khai nhận hành vi phạm tội như sau: 

Ngày 25/10/2018, bị cáo Cà Văn Đ bị Tòa án nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Ngày 26/11/2018, Tòa án nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La ra Quyết định thi hành hình phạt tù (đối với người bị phạt tù đang được tại ngoại), nhưng bị cáo Cà Văn Đ đang chăm sóc vợ ốm tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Sơn La nên chưa đến Cơ quan Thi hành án hình sự - Công an huyện Mường La, tỉnh Sơn La để chấp hành án. Do bản thân nghiện ma túy, khoảng 15 giờ 30 phút ngày 18/12/2018, Cà Văn Đ đi bộ từ trong Bệnh viện đa khoa tỉnh Sơn La (thuộc tổ 4, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La) ra khu vực cổng bệnh viện để tìm mua ma túy sử dụng. Tại đây, Đ gặp và mua được của một người nam giới (không biết họ tên, tuổi và địa chỉ) 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. Đ cầm gói ma túy vừa mua được trong lòng bàn tay phải rồi đi bộ vào trong bệnh viện để tìm nơi sử dụng thì bị Cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Cùng ngày 18/12/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La ra quyết định số 206/QĐ trưng cầu giám định phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy đối với vật chứng thu giữ của Cà Văn Đ, kết quả: Số chất cục, bột màu trắng trong 01 gói giấy màu trắng có dòng kẻ có khối lượng là 0,13 gam. Lấy toàn bộ 0,13 gam làm mẫu gửi Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy (ký hiệu Đ1).

Tại Kết luận giám định số 88/KLMT ngày 20/12/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu giám định ký hiệu Đ1 là ma túy; Loại chất Heroine; Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,13 gam. Tổng khối lương ch ất ma tuy thu giư la 0,13 gam; Loại chất Heroine.

Về nguồn gốc 0,13 gam Heroine bị thu giữ: Bị cáo Cà Văn Đ khai mua của một người nam giới (không biết họ tên, tuổi và địa chỉ) vào ngày 18/12/2018 tại khu vực tổ 4, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh, do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra

- Công an thành phố Sơn La không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 18/CT-VKSTP ngày 15/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Cà Văn Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điêm c kho ản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Cà Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Cà Văn Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015; Xử phạt bi cao Cà Văn Đ từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi tư) tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015, tổng hợp hình phạt với bản án số 80/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 tội Mua bán trái phép chất ma túy của TAND huyện Mường La, tỉnh Sơn La.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ.

Trả lại cho bị cáo Cà Văn Đ: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu xanh đen, có 01 sim có số thuê bao 0338.406.540, đã qua sử dụng. Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa , bị cáo Cà Văn Đ nhận tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát , đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Ngày 18/12/2018, bị cáo Cà Văn Đ đã có hành vi cất giấu trái phép 0,13 gam Heroine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực tổ 04, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ:

- Lời khai nhận tội của bị cáo;

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 16 giờ 20 phút ngày 18/12/2018 tại Tổ 04, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La đối với Cà Văn Đ cùng vật chứng thu giữ là 01 gói giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong chứa chất cục, bột màu trắng, có khối lượng 0,13 gam; Biên bản niêm phong vật chứng;

Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 88/KLMT ngày 20/12/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của ông Lò Văn H, sinh năm 1960, trú tại : Tổ X, phường C, thành phố Sơn La , tỉnh Sơn La là ngư ời chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với kết quả điều tra.

Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Cà Văn Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo Cà Văn Đ phạm tội với khối lượng 0,13 gam Heroine, vi phạm tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, khung hình phạt có mức hình phạt tù từ một năm đến năm năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng.

Hội đồng xét xử thấy rằng: Tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó, cần lên mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo biện pháp cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần cân nhắc về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có 01 bản án số 80/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 bị TAND huyện Mường La, tỉnh Sơn La xử 07 (bảy) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy chưa đi chấp hành án; đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 bản án số 80/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 bị TAND huyện Mường La, tỉnh Sơn La xử 07 (bảy) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, chưa đi chấp hành án, bị cáo phạm tội mới nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015: Tái phạm.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo Cà Văn Đ khai mua của một người nam giới không quen biết tại khu vực tổ 04, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh, nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án. Do đó buộc Cà Văn Đ phải chịu trách nhiệm về số ma tuý bị thu giữ.

[6] Vật chứng vụ án: Đối với 0,13 gam Heroine thu giữ trong vụ án, cơ quan công an đã lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định theo quy định của pháp luật.

Đối với 01 phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở + 01 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ là vật dùng để gói ma túy và vật không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu xanh đen, có 01 sim có số thuê bao 0338.406.540 tạm giữ khi bắt quả tang: Quá trình điều tra xác định đều là tài sản của bị cáo Cà Văn Đ, không sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[7] Về án phí: Do hành vi phạm tội của bị cáo nên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Tuyên bố bị cáo Cà Văn Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Cà Văn Đ 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 18/12/2018).

Áp dụng khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015, tổng hợp với hình phạt 07 (bảy) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy tại bản án số 80/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 của TAND huyện Mường La, tỉnh Sơn La buộc bị cáo Cà Văn Đ phải đi chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 13/7/2017 đến ngày 18/7/2017 (06 (sáu) ngày), bị cáo còn phải chấp hành hình phạt tù là 08 (tám) năm 05 (lăm) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 18/12/2018).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ được niêm phong trong 01 (một) chiếc phong bì công văn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Cà Văn Đ. Sinh năm 1986. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 18/12/2018”.

Trả lại cho bị cáo Cà Văn Đ: 01 (một) chiếc điện thoại di động là vật chứng quả tang vụ Cà Văn Đ tàng trữ trái phép chất ma túy vào ngày 18/12/2018 tại tổ 04, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La được niêm phong trong 01 (một) chiếc phong bì công văn của Công an phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/02/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 khoản 1 Điều 21 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14: Buộc bị cáo Cà Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Cà Văn Đ được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 05/03/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:06/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về