Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 28/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 06/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 808/2018/TLST–HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2019/QĐXXST–HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Ngọc T, sinh năm 1986;

Cư trú tại: Tổ 3, ấp T, xã L, huyện C, tỉnh Tây Ninh; “có mặt”.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Tấn H, sinh năm 1985;

Cư trú tại: Tổ 9, ấp Đ, xã L, huyện C, tỉnh Tây Ninh; “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/12/2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Ngọc T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Tấn H tự nguyện chung sống, kết hôn với nhau từ năm 2017, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện C, tỉnh Tây Ninh. Chị và anh H chung sống đến tháng 3/2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng ý kiến, anh H không lo làm ăn, thường xuyên ăn nhậu và chơi bài bạc. Chị đã nhiều lần khuyên giải anh H để giữ hạnh phúc gia đình nhưng anh H không thay đổi, ngược lại còn hăm dọa, mắng chửi, đánh đập chị. Chị và anh H sống ly thân với nhau từ khoảng tháng 8/2018 đến nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị yêu cầu ly hôn với anh H.

- Về con chung: Chị và anh H có 01 con chung tên Nguyễn Ánh N, sinh ngày 07/5/2018. Chị yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải, bị đơn anh Nguyễn Tấn H trình  bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh thừa nhận lời trình bày của chị T về thời gian chung sống, kết hôn là đúng. Quá trình chung sống, anh và chị T có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng ý kiến, không đồng chung quan điểm, vợ chồng có cãi nhau và anh có đánh chị T một bạt tai. Nay anh không đồng ý ly hôn với chị T vì anh còn tình cảm với chị T và muốn hàn gắn, đoàn tụ để vợ chồng cùng chăm sóc gia đình, nuôi dạy con chung.

- Về con chung: Anh mong muốn đoàn tụ nên không có ý kiến về con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn, nuôi con; anh Hđồng ý ly hôn, đồng ý giao con cho chị T nuôi dưỡng nhưng yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giải quyết tài sản chung là số tiền 270.000.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh phát biểu ý kiến:

Qua công tác kiểm sát xét thấy từ khi thụ lý vụ án, cấp, tống đạt các văn bản tố tụng cho các đương sự, chuyển hồ sơ vụ án, quá trình thu thập chứng cứ, lấy lời khai, hòa giải, thời hạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thưký phiên tòa, các Hội thẩm nhân dân đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Các bên đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của các đương sự theo quy định pháp luật.

Nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn của chị T và anh H.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ánh N, sinh ngày 07/5/2018 cho chị T nuôi dưỡng. Ghi nhận chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

- Tài sản chung: Đề nghị Hội đồng xét xử tách yêu cầu chia tài sản chung của anh H để giải quyết ở vụ án khác.

- Nợ chung: Chị T và anh H không yêu cầu giải quyết.

Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Ngọc T và anh Nguyễn Tấn H tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2017, có đăng ký kết hôn; đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Chị T yêu cầu ly hôn với anh H vì bất đồng ý kiến, anh H không chăm lo gia đình, thường xuyên uống rượu và chơi bài bạc, hăm dọa và đánh đập chị; anh H thừa nhận vợ chồng cãi nhau nên anh có đánh chị T, nay anh cũng đồng ý ly hôn nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình công nhận sự thuận tình ly hôn của các đương sự.

[2] Về con chung: Chị T, anh H có 01 người con chung tên Nguyễn Ánh N, sinh ngày 07/5/2018. Xét thấy cháu N chưa đủ 36 tháng tuổi; chị T có công việc và thu nhập ổn định đủ điều kiện đảm bảo việc nuôi dưỡng con chung và anh H cũng đồng ý giao con cho chị T nuôi dưỡng. Do đó giao cháu N cho chị T nuôi dưỡng là phù hợp và đảm bảo lợi ích của con chung theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Ghi nhận chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, anh H và chị T phải thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình về thăm nom, nuôi dạy con chung.

[3] Về tài sản chung: Tại phiên tòa, anh H yêu cầu chia tài sản chung đối với số tiền 270.000.000 đồng, chị T không đồng ý chia tài sản vì cho rằng vợ chồng không có tạo lập tài sản chung. Xét yêu cầu chia tài sản chung của anh H thấy rằng: Trong suốt quá trình thu thập chứng cứ và trước khi Tòa án tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, anh H không có đơn yêu cầu chia tài sản chung đối với chị T nên tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết; yêu cầu này sẽ được xem xét giải quyết ở một vụ án khác khi anh H có đơn yêu cầu.

[4] Về nợ chung: Chị T và anh H không yêu cầu giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Lê Ngọc T, anh Nguyễn Tấn H mỗi người phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 150.000 (một trăm năm mươi nghìn) đồng theo Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Ghi nhận chị T tự nguyện nộp thay án phí cho anh H.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 55, 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. 

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Ngọc T và anh Nguyễn Tấn H thuận tình ly hôn.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ánh N, sinh ngày 07/5/2018 cho chị Lê  Ngọc T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Ghi nhận chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, chị T cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở. Anh H không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về tài sản chung: Yêu cầu chia tài sản chung của anh H sẽ được xem xét giải quyết ở vụ án khác khi có đơn yêu cầu.

4. Về nợ chung: Chị T và anh H không yêu cầu giải quyết.

5. Án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Lê Ngọc T, anh Nguyễn Tấn H mỗi người phải chịu 150.000 (một trăm năm mươi nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm; chị T tự nguyện chịu thay cho anh H số tiền 150.000 (một trăm năm mươi nghìn) đồng án phí, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng chị T đã nộp theo biên lai thu số 0019184 ngày 03/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh; ghi nhận chị T đã nộp xong án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 28/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:06/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về