Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 26/07/2019 về ly hôn,tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 06/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2019 VỀ LY HÔN,TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 26 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 49/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2019; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 02/2019/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2019 và Thông báo mở lại phiên tòa số 04/TB-TA ngày 23 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Tẩn Thị Thanh H.

Địa chỉ: Tổ 4, thị trấn B, huyện B, tỉnh Lào Cai. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Anh Lường Văn D.

Nơi đăng ký hộ khẩu: Thôn M, xã Th, huyện B, tỉnh Lào Cai.

Hiện đang Thi hành án phạt tù tại Đội 26, phân trại số 3, trại giam T. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

NHẬN THẤY

Trong đơn khởi kiện ngày 08/4/2019 và trong quá trình tòa án giải quyết, nguyên đơn chị Tẩn Thị Thanh H trình bày:

Chị và anh Lường Văn D kết hôn với nhau có đăng ký ngày 11/01/2012, tại Uỷ ban nhân dân xã Th, huyện B, tỉnh Lào Cai.

Sau kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh D nghiện ma túy, có hành vi trộm cắp từ đó hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, hai bên gia đình đã hòa giải nhiều lần nhưng không khắc phục được, năm 2014 vợ chồng đã sống ly thân, chị về nhà mẹ đẻ ở thị trấn B để ở, đến tháng 12 năm 2017 anh D phạm tội và bị xử phạt 2 năm tù, hiện anh đang thi hành án tại trại giam T. Nay chị H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị có nguyện vọng xin được ly hôn anh D.

Về con chung: Chị và anh Lường Văn D chưa có con chung.

Về con riêng: Trong thời gian anh Lường Văn D đi thi hành án phạt tù tại trại giam T, chị đã sinh được 01 cháu trai theo giấy chứng sinh số 99, quyển số 8, tại bệnh viện sản nhi Lào Cai vào ngày 10 tháng 6 năm 2019. Hiện đặt tên tạm thời là Tẩn Hoàng Tuấn A (vì chưa làm giấy khai sinh). Đây là con riêng của chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi.

Về tài sản: Chị không yêu cầu tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 12/6/2019 và ngày 14 /7/2019 anh Lường Văn D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh công nhận về thời gian và địa điểm đăng ký kết hôn như chị H trình bày là đúng, anh hoàn toàn nhất trí. Trước khi kết hôn anh chị cũng có thời gian tìm hiểu, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn như chị H trình bày là đúng. Thực tế vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2014, trong thời gian sống ly thân đến tháng 12 năm 2017 thì anh phạm tội, bị xử phạt tù 2 năm, hiện tại anh đang thi hành án tại trại giam T. Đến nay, chị H có đơn xin ly hôn, anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh và chị H không có con chung.

Về con riêng: Chị H khai có con riêng trong thời gian anh đi thi hành án phạt tù, anh hoàn toàn đồng ý, chị H có đơn yêu cầu giám định huyết thống anh không đồng ý, vì xét thấy thời gian anh đi thi hành án từ tháng 12/2017 cho đến nay chị H không vào thăm anh lần nào, đây là con riêng của chị H, anh không có ý kiến gì.

Về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. 

Tại phiên toà hôm nay Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát có quan điểm: Thẩm phán, hội đồng xét xử giải quyết vụ án dân sự tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, đảm bảo việc giải quyết vụ án dân sự kịp thời, đúng pháp luật, thu thập chứng cứ đúng theo qui định pháp luật. Thư ký phiên toà và những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 đề nghị giải quyết theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị H được ly hôn anh Lường Văn D. Về con riêng giao cháu trai sinh ngày 10 tháng 6 năm 2019, theo giấy chứng sinh số 99, quyển số8, tại bệnh viện sản nhi Lào Cai cho chị Tẩn Thị Thanh H nuôi dưỡng cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Ngoài ra còn tuyên án phí, quyền kháng cáo cho các đương sự..

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về Thẩm quyền giải quyết: Chị Tẩn Thị Thanh H là nguyên đơn, có địa chỉ tại tổ 4, thị trấn Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai và anh Lường Văn D trước khi đi Thi hành án phạt tù có địa chỉ tại thôn Múc, xã Thái Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai, anh chị có văn bản thỏa thuận yêu cầu Tòa án nơi cư trú của nguyên đơn giải quyết tranh chấp về Hôn nhân và Gia đình. Như vậy Tòa án nhân dân huyện Bát Xát thụ lý vụ án là phù hợp với qui định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Tại phiên Tòa hôm nay chị Tẩn Thị Thanh H và anh Lường Văn D đều có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị Tẩn Thị Thanh H và anh Lường Văn D.

[3] Chị Tẩn Thị Thanh H và anh Lường Văn D kết hôn với nhau có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Thái Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai, theo quyển số 02/2010, số 03/2012 ngày 11/01/2012. Đây là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ và công nhận.

[4] Trong quá trình giải quyết và tại các bản khai chị H vẫn giữ nguyên quan điểm ly hôn anh D, tại biên bản lấy lời khai anh Lường Văn D đồng ý ly hôn.

Mặc dù chị H và anh D thuận tình ly hôn, nhưng do Tòa án không tiến hành Hòa giải được vì anh D đang đi thi hành án và có đơn không yêu cầu Tòa án hòa giải, vì vậy Tòa án không công nhận sự thỏa thuận của anh chị mà xử cho chị H được ly hôn anh D là phù hợp với khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về con: Chị H và anh D chưa có con chung, vì vậy Hội đồng xét xử không giải quyết.

[6] Về con riêng: Trong thời gian anh Lường Văn D đi thi hành án phạt tù tại trại giam T, chị Tẩn Thị Thanh H đã sinh được 01 cháu trai theo giấy chứng sinh số 99, quyển số 8, tại bệnh viện sản nhi Lào Cai vào ngày 10 tháng 6 năm 2019. Hiện đặt tên tạm thời là Tẩn Hoàng Tuấn A (vì chưa làm giấy khai sinh).

Đây là con riêng của chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi. Anh Lường Văn D xác nhận vợ chồng chưa có con chung, cháu trai chị H sinh vào ngày 10/6/2019 là con riêng của chị H.

Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án, sau khi sinh cháu chị H xác nhận đây là con riêng của chị, không phải là con chung với anh Lường Văn D, chị đã có đơn trưng cầu giám định huyết thống với anh Lường Văn D nhưng anh Lường Văn D từ chối giám định và không cung cấp mẫu so sánh, lý do anh D đưa ra là vợ chồng sống ly thân từ năm 2014, không quan tâm đến nhau, tháng 12/2017 anh phạm tội và bị xử phạt tù 02 năm tù, đi thi hành án tại Trại giam T từ ngày 20/6/2018. Từ khi đi thi hành án tại trại giam T chị H không đến thăm lần nào, vì vậy không cần phải giám định, anh xác nhận là con riêng của chị H.

Qua xác minh tại Trại giam T thì từ ngày 20/6/2018 cho đến nay chị H không đến thăm anh D lần nào, D nhất có một lần gia đình đến thăm là bà Phạm Thị Hòa là mẹ anh D vào ngày 30/01/2019, như vậy việc anh D và chị H khai vợ chồng chưa có con chung là có cơ sở, anh D và chị H đều xác nhận cháu trai theo giấy chứng sinh số 99, quyển số 8, tại bệnh viện sản nhi Lào Cai vào ngày 10 tháng 6 năm 2019 do chị H sinh ra là con riêng của chị H. Hội đồng xét xử xét thấy là có căn cứ cần chấp nhận yêu cầu của anh D và chị H.

Nay ly hôn chị H xin được nuôi, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H giao cháu trai cho chị H nuôi dưỡng, vì không phải là con chung nên chị H không yêu cầu anh D cấp dưỡng, Hội đồng xét xử không giải quyết.

Về tài sản: Chị H và anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết vì vậy Hội đồng xét xử không giải quyết.

[7] Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

1. Xử cho chị Tẩn Thị Thanh H được ly hôn anh Lường Văn D.

2. Về con riêng: Chị Tẩn Thị Thanh H được nuôi dưỡng cháu trai sinh ngày 10 tháng 6 năm 2019, theo giấy chứng sinh số 99, quyển số 8, tại bệnh viện sản nhi Lào Cai. Hiện đặt tên tạm thời là Tẩn Hoàng Tuấn A (vì chưa làm giấy khai sinh) cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi.

3. Về Án phí: Chị Tẩn Thị Thanh H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai theo biên lai số AB/2012/0003206 ngày 16 tháng 4 năm 2019. Chị Tẩn Thị Thanh H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự, có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 26/07/2019 về ly hôn,tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:06/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bát Xát - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về