Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 13/08/2019 về xin ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V H, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 06/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2019 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 13 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện VH, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 59/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2019 về việc Xin ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2019/ QĐXX-ST ngày 24 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Sùng Y S . Sinh năm 1990.

Đa chỉ: Bản B N 1, xã VH, huyện VH, tỉnh Sơn La. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Giàng A S. Sinh năm 1987.

Đa chỉ: Bản B N 1, xã VH, huyện VH, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn, chị Sùng Y S: Chị và anh Giàng A S tự nguyện tìm hiểu. Ngày 14/9/2015 đăng ký kết hôn tại UBND xã VH, huyện VH, tỉnh Sơn La. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến cuối năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân, do tính tình không hợp, anh S thường xuyên rượu chè, bê tha rồi về nhà đánh đập vợ, không chịu làm ăn, không quan tâm đến gia đình. Anh chị được gia đình nhiều lần hòa giải, nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không thể hàn gắn, vợ chồng đã ly thân từ được 01 năm nay. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho ly hôn anh Giàng A S.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, anh chị có 02 con chung: Cháu Giàng A D, sinh ngày 15/9/2012 và cháu Giàng A M, sinh ngày 16/8/2014. Chị Sùng Y S và anh Giàng A S thỏa thuận để anh Giàng A S được quyền nuôi cả hai con Giàng A D và Giàng A M đến khi các con đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, tại phiên tòa, chị cho rằng vì không hiểu biết pháp luật, anh S lại dọa dẫm, nên tại phiên hòa giải đã đồng ý để cho anh Giàng A S nuôi cả hai con. Tại phiên tòa hôm nay, nghe HĐXX giải thích, chị tha thiết đề nghị HĐXX cho chị được nuôi một con chung.

Về tài sản chung: Quá trình chung sống, chị Sùng Y S và anh Giàng A S có tạo dựng được một số tài sản gồm: 01 nhà xây 03 gian, lợp Pro – xi măng, 01 máy khâu đã cũ, 01 tủ tường 03 buồng và 01 hòm gỗ. Chị Sùng Y S tự nguyện để lại toàn bộ tài sản trên cho anh Giàng A S quản lý, sử dụng, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết.

Cuối cùng, nguyên đơn đề nghị HĐXX xem xét cho chị được ly hôn anh Giàng A S, đề nghị được nuôi một con chung và chấp nhận sự thỏa thuận của các đương sự về tài sản chung.

- Ý kiến của bị đơn, anh Giàng A S trình bày: Anh thừa nhận tự nguyện tìm hiểu, chung sống như vợ chồng từ năm 2011, đến năm 2015 thì đăng ký kết hôn với chị Sùng Y S. Sau khi kết hôn, do không hợp tính tình, hai vợ chồng thường nảy sinh mâu thuẫn, không thể kéo dài đời sống chung. Tuy nhiên, do phải chi phí cho việc cưới hỏi theo phong tục người Mông, anh đã chi hết số tiền 20.000.000 đồng. Do vậy, nếu chị Sùng Y S xin ly hôn, anh đề nghị HĐXX buộc chị Sùng Y S phải bồi thường cho anh số tiền trên.

Về con chung: Anh cho rằng chị Sùng Y S bỏ nhà đi về nhà bố mẹ đẻ, nên không có quyền nuôi con, anh đề nghị được nuôi cả hai con chung, yêu cầu chị Sùng Y S cấp dưỡng nuôi một con theo khả năng kinh tế.

Về tài sản chung và nợ chung: Nhất trí như chị Sùng Y S trình bày, không có ý kiến gì thêm.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện VH phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng quy định của pháp luật từ khi nhận đơn khởi kiện, thụ lý vụ án đến khi công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định xét xử, tiến hành thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục hỏi đảm bảo đầy đủ, khách quan những vấn đề cần giải quyết. Những người tham gia tố tụng chấp hành nghiêm chỉnh giấy triệu tập của Tòa án và tham gia tất cả các giai đoạn, công việc của quá trình chuẩn bị xét xử và tham gia phiên tòa. Căn cứ các chứng cứ có trong hồ sơ và qua việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau: Đề nghị áp dụng điều 28, điều 35, điều 146, 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điều 51; điều 56; 57; 58; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đìnhkhon 1 điều 25, điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

+ Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Sùng Y S, xử cho chị Sùng Y S được ly hôn anh Giàng A S.

+ Không chấp nhận yêu cầu bồi thường số tiền 20.000.000 đồng của anh Giàng A S đối với chị Sùng Y S.

+ Chấp nhận đề nghị của chị Sùng Y S: Giao cháu Giàng A M, sinh ngày 16/8/2014 cho chị Sùng Y S nuôi dưỡng, giáo dục. Giao cháu Giàng A D, sinh ngày 15/9/2012 cho anh Giàng A S nuôi dưỡng giáo dục đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên kia. Không ai được cản trở quyền đi lại thăm nom, chăm sóc các con.

+ Ghi nhận sự tự thỏa thuận tại phiên hòa giải của các đương sự: Giao toàn bộ tài sản gồm 01 nhà xây 03 gian, lợp Pro – xi măng, 01 máy khâu đã cũ, 01 tủ tường 03 buồng và 01 hòm gỗ cho anh Giàng A S quản lý, sử dụng.

+ Chị Sùng Y S phải chịu án phí xin ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]Về quan hệ hôn nhân: Chị Sùng Y S và anh Giàng A S tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, sau khi kết hôn, vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn, sống ly thân một thời gian dài. HĐXX xét thấy, mâu thuẫn của anh chị đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Sùng Y S.

Hi đồng xét xử xét thấy, yêu cầu đòi bồi thường theo phong tục của người Mông số tiền 20.000.000 đồng của anh Giàng A S đối với chị Sùng Y S là không có căn cứ, do vậy, không chấp nhận yêu cầu của anh Giàng A S.

[2]Về con chung: Tại phiên hòa giải, các đương sự thỏa thuận giao cả hai cháu cho anh Giàng A S chăm sóc, nuôi dưỡng. Tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn, chị Sùng Y S cho rằng vì không hiểu biết pháp luật, anh Giàng A S lại dọa đánh, nên đã đồng ý để cho anh Giàng A S nuôi cả hai con. Sau khi nghe HĐXX giải thích, chị tha thiết đề nghị HĐXX cho chị được nuôi một con chung. HĐXX xét thấy, đây là yêu cầu chính đáng, thể hiện tình cảm của mẹ với các con, do vậy, chấp nhận yêu cầu của chị Sùng Y S, giao cháu Giàng A M cho chị Sùng Y S nuôi dưỡng, giáo dục.

[3] Về tài sản chung: Các đương sự đã tự thỏa thuận tại phiên hòa giải. Tại phiên tòa, chị Sùng Y S không có ý kiến gì bổ sung, theo đó, chị Sùng Y S để lại toàn bộ tài sản gồm 01 nhà xây 03 gian, lợp Pro – xi măng, 01 máy khâu đã cũ, 01 tủ tường 03 buồng và 01 hòm gỗ cho anh Giàng A S quản lý sử dụng. Xét thấy đây là thỏa thuận đúng quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, cần ghi nhận sự thỏa thuận trên của các đương sự.

[4] Về nợ chung: Không có, không đặt vấn đề giải quyết.

[5] Về án phí: Nguyên đơn, chị Sùng Y S khởi kiện phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, khoản 1 điều 146, khoản 4 điều 147 BLTTDS; khoản 1 điều 51; khoản 1 điều 56; điều 57; điều 58; khoản 1, 2 điều 81; khoản 1,3 điều 82; điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 25, điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Sùng Y S được ly hôn anh Giàng A S.

Không chấp nhận yêu cầu bồi thường 20.000.000 đồng tiền phong tục cưới hỏi của người Mông của anh Giàng A S đối với chị Sùng Y S.

2. Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của chị Sùng Y S: Giao cháu Giàng A M, sinh ngày 16/8/2014 cho chị Sùng Y S nuôi dưỡng, giáo dục. Giao cháu Giàng A D, sinh ngày 15/9/2012 cho anh Giàng A S nuôi dưỡng giáo dục đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên kia. Không ai được cản trở quyền đi lại thăm nom, chăm sóc các con.

3. Về tài sản chung: Ghi nhận sự tự thỏa thuận của các đương sự, cụ thể như sau: Giao toàn bộ tài sản gồm 01 nhà xây 03 gian, lợp Pro – xi măng, 01 máy khâu đã cũ, 01 tủ tường 03 buồng và 01 hòm gỗ cho anh Giàng A S quản lý, sử dụng.

4. Về nợ chung: Không có, không đặt vấn đề giải quyết.

5. Về án phí: Chị Sùng Y S chịu án phí xin ly hôn là 300.000 đồng, được trừ vào dự phí xin ly hôn là 300.000 đồng, tại biên lai thu tạm ứng án phí số 0001065 ngày 08/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện VH.

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 13/08/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:06/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về