Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 03/04/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỒ SƠN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 06/2019/HNGĐ-ST NGÀY 03/04/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 03 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Đồ Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 122/2018/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2018 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lưu Đình M, sinh năm 1992, nơi cư trú: Tổ dân phố 6, phường V, quận Đ, thành phố Hải Phòng; vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Vũ Thị Thùy L, sinh năm 1996, nơi cư trú: Tổ dân phố 6, phường V, quận Đ, thành phố Hải Phòng; vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ghi ngày 26-11-2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Lưu Đình M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Vũ Thị Thùy L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Vạn Hương, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng vào ngày 27-11-2014. Anh chị chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, bất đồng trong cách phát triển kinh tế gia đình nên thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau. Hơn nữa anh chị lại không có con chung nên tình cảm vợ chồng lạnh nhạt dần, trong cuộc sống vợ chồng thiếu sự quan tâm, chia sẻ lẫn nhau. Mặc dù anh chị đã nhiều lần cố gắng khắc phục, gia đình hai bên cũng đã tác động, khuyên giải nhưng không có kết quả. Hiện nay anh chị đang sống ly thân và không còn quan tâm gì đến nhau. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị L.

Về con chung: Anh và chị L không có con chung.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại Bản tự khai ngày 21-12-2018, bị đơn là chị Vũ Thị Thùy L có lời khai thống nhất với anh M về điều kiện, hoàn cảnh kết hôn, thời gian và nguyên nhân mâu thuẫn. Chị trình bày, việc mâu thuẫn giữa anh chị xảy ra chủ yếu là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không thống nhất với nhau trong cách chi tiêu, sinh hoạt, phát triển kinh tế gia đình; hơn nữa, thời gian anh chị chung sống với nhau cũng đã lâu mà không có con nên tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt, dần dần vợ chồng không còn quan tâm, chia sẻ gì với nhau. Gia đình hai bên đã nhiều lần khuyên giải, bản thân anh chị cũng đã cố gắng khắc phục tình trạng hôn nhân nhưng không có kết quả, mâu thuẫn giữa anh chị ngày càng lớn. Hiện nay anh chị đã sống ly thân, không còn quan tâm gì đến cuộc sống của nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị cũng đồng ý ly hôn với anh M.

Về con chung: Chị và anh M không có con chung.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Đồ Sơn phát biểu về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của người tham gia tố tụng và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình:

Về quan hệ hôn nhân, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho anh M được ly hôn với chị L. Về con chung, anh M và chị L không có con chung. Về tài sản chung, anh M và chị L không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

Anh M phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Anh M và chị L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Vạn Hương, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng vào ngày 27-11-2014 nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Nay, anh M có đơn yêu cầu xin ly hôn với chị L, đây là vụ án về việc ly hôn, bị đơn là chị Vũ Thị Thùy L, có nơi cư trú tại: Tổ dân phố 6, phường Vạn Hương, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng; theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn đều vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh M và chị L.

Về quan hệ hôn nhân:

[3] Anh M và chị L đều trình bày anh chị chung sống hoà thuận, hạnh phúc đến đầu năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không thống nhất với nhau trong cách phát triển kinh tế gia đình nên vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát, cãi vã; thêm nữa, anh chị không có con chung dẫn đến việc tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, dần dần vợ chồng không còn quan tâm, chia sẻ với nhau. Khi xảy ra mâu thuẫn, anh chị đã tự khắc phục và cũng đã được gia đình hai bên nhiều lần tác động, khuyên giải nhưng không có kết quả, tình trạng hôn nhân của anh chị vẫn không được cải thiện. Hiện anh chị đã sống ly thân, không còn quan tâm gì đến cuộc sống của nhau. Lời khai của anh M và chị L phù hợp với trình bày của gia đình anh M, gia đình chị L và xác nhận của tổ dân phố, chính quyền địa phương nơi anh chị cư trú. Xét thấy, hôn nhân của anh M và chị L đã đến mức độ trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, cả hai anh chị đều xin ly hôn. Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình cần xử cho anh M và chị L được ly hôn.

[4] Về con chung: Anh M và chị L không có con chung.

[5] Về tài sản chung: Anh M và chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Anh M là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: Anh M và chị L có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Lưu Đình M được ly hôn chị Vũ Thị Thùy L.

2. Về án phí: Anh M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số 0006912 ngày 13-12-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng; anh M đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Anh M và chị L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 03/04/2019 về ly hôn

Số hiệu:06/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đồ Sơn - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về