Bản án 06/2019/DS-ST ngày 12/03/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 06/2019/DS-ST NGÀY 12/03/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 12 tháng 03 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phốSóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số329/2018/TLST-DS ngày 07 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp hợp đồng vay tàisản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2019/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Huỳnh Bạch Đ, sinh năm 1956.

Địa chỉ: Số M đường K, khóm H, phường N, thành phố P, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thu T, sinh năm: 1978 (có mặt). Trú tại: Số S đường L, khóm N, phường B, thành phố P, tỉnh Sóc Trăng là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (văn bản ủy quyền ngày 31 tháng 10 năm 2018).

- Bị đơn: Ông Trần Văn M, sinh năm: 1971 (vắng mặt, có đơn xin xét xửvắng mặt).

Địa chỉ: Số B đường T, khóm H, phường N, thành phố P, tỉnh Sóc Trăng. Đang chấp hành án tại trại giam: H, tỉnh L. Địa chỉ: Xã T, huyện T, tỉnhLong An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 30/10/2018 của nguyên đơn ông Huỳnh Bạch Đ, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu T trình bày:

Vào ngày 30/12/2016 ông Huỳnh Bạch Đ có cho ông Trần Văn M vay số tiền 50.000.000 đồng, ông M hứa chậm nhất đến tháng 03 năm 2017 dương lịch sẽ trả số tiền này. Việc cho vay có làm biên nhận bằng giấy tay do ông M tự viết. Tuy nhiên, từ tháng 03 năm 2017 đến nay ông Đ đã nhiều lần yêu cầu ông M trả tiền nhưng ông M đều né tránh và không có thiện chí trả nợ cho ông Đ. Ngày 29/10/2018 thông qua người thân của ông M, ông Đ biết được ông M đã bị Tòa án nhân dân thành phố P kết án và đang bị tạm giữ tại Nhà Tạm giữ Công an thành phố P. Nay ông Đ yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông Trần Văn M trả lại cho ông Đ số tiền 50.000.000 đồng và tiền lãi với lãi suất là 10%/năm từ ngày 01/4/2017 đến khi vụ án được giải quyết xong, tạm tính đến ngày khởi kiện là 01 năm 07 tháng với số tiền là 7.800.000 đồng. Tổng cộng: vốn và lãi là 57.800.000 đồng.

Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Ông Đ chỉ yêu cầu ông M trả số tiền vốn vay 50.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 04/01/2019 bị đơn ông Trần Văn M trình bày:

Ông thừa nhận chữ ký và chữ viết trong tờ biên nhận ngày 30/12/2016 thể hiện ông có vay của ông Huỳnh Bạch Đ số tiền 50.000.000 đồng là của ông, nội dung biên nhận không có thỏa thuận lãi và thời hạn trả. Tuy nhiên, hàng tháng ông có đóng lãi cho ông Đ với lãi suất là 20%/tháng, ông không nhớ đã trả lãi cho ông Đ số tiền bao nhiêu vì khi trả lãi thì không có làm biên nhận. Về nguồn gốc số tiền 50.000.000 đồng là từ tiền lãi nhập vào tiền vốn, cụ thể ông có vay của ông Đ nhiều lần, có lần 12.000.000 đồng, có lần 10.000.000 đồng, có lần 5.000.000 đồng với lãi suất 20%/tháng, các lần vay này không có làm biên nhận, do ông không có tiền đóng lãi nên ông Đ nhập số lãi vào thành tiền vốn50.000.000 đồng và yêu cầu ông viết tờ biên nhận ngày 30/12/2016. Sau khi viết tờ biên nhận này ông đã đóng lãi cho ông Đ đến tháng 04 năm 2017 với lãi suất20%/tháng thì ngưng đóng cho đến nay. Do ông không có chứng cứ gì chứng minh số tiền lãi nhập vào tiền vốn, đồng thời khi ông đóng lãi cho ông Đ cũng không có làm biên nhận nên ông không yêu cầu xem xét tính lại số tiền lãi ông đã trả cho ông Đ. Ông đồng ý trả số tiền vốn 50.000.000 đồng cho ông Đ, nhưng hiện nay ông đang chấp hành án nên xin gia hạn đến khi ông chấp hành án xong sẽ trả số tiền trên cho ông Đ, xin trả mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi dứtnợ và xin giảm lãi vì hoàn cảnh ông đang gặp khó khăn.

- Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng trình bày ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự như: Xác định đúng thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập chứng cứ đúng theo quy định.

Về thời hạn chuẩn bị xét xử được đảm bảo theo quy định. Về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiêncứu, việc cấp tống đạt đảm bảo đúng theo quy định. Tại phiên Tòa Hội đồng xétxử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định tại các điều 68; 70; 71; 72; 86 và Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án qua thẩm tra các chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện các tài liệu chứng cứ và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Tại phiên tòa bị đơn ông Trần Văn M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất và có đơn xin xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông Trần Văn M.

 [2] Về nội dung: Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu T xin thay đổi một phần nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chỉ yêu cầu ông Trần Văn M trả cho ông Huỳnh Bạch Đ số tiền vốn vay 50.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi. Xét thấy, việc thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện và không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Bạch Đ về việc yêu cầu ông Trần Văn M trả cho ông số tiền vốn vay 50.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi. Theo đó, ông Đ đã cung cấp cho Tòa án bản chính biên nhận lập ngày 30/12/2016. Ông Trần Văn M thừa nhận chữ ký và chữ viết trong tờ biên nhận do nguyên đơn cung cấp là của ông và từ khi viết biên nhận này đến nay ông M chưa thanh toán tiền vốn vay cho ông Đ và ông M cũng đồng ý trả cho ông Đ số tiền 50.000.000 đồng. Nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự xác định ông M còn nợ ông Đ số tiền vốn vay50.000.000 đồng. Tại khoản 1 Điều 474 của Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn”. Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông Đ là có cơ sở được Hội đồng xét xử chấp nhận, buộc ông M có trách nhiệm thanh toán cho ông Đ số tiền vốn vay còn nợ là 50.000.000 đồng.

 [4] Đối với yêu cầu của ông M xin được trả số tiền vốn vay 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi hết nợ, yêu cầu này không được người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà T đồng ý, nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét. Yêu cầu này sẽ được xem xét ở giai đoạn thi hành án khi bản án có hiệu lực pháp luật.

 [5] Như đã phân tích ở trên lời đề nghị của kiểm sát viên về nội dung là có cơ sở chấp nhận.

 [6] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Bạch Đ được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí. Bị đơn ông Trần Văn M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 2.500.000 đồng (50.000.000 đồng x 5%) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 5, Khoản 3 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điều 147, Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228, Khoản 1 Điều 244, Khoản 1 Điều 273, Khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng: Điều 474 Bộ luật Dân sự 2005; Khoản 2, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí toà án.

 Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Bạch Đ.

2. Buộc bị đơn ông Trần Văn M có nghĩa vụ thanh toán cho ông HuỳnhBạch Đ số tiền vốn vay: 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày ông Huỳnh Bạch Đ có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng ông Trần Văn M còn phải trả lãi cho ông Huỳnh Bạch Đ theo mức lãi suất 10%/năm đối với số tiền chậm thi hành án.

3. Án phí dân sự sơ thẩm:

3.1. Nguyên đơn ông Huỳnh Bạch Đ không phải chịu. Hoàn trả cho ông Đsố tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.445.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0004742 ngày 23/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Sóc Trăng.

3.2. Bị đơn ông Trần Văn M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền2.500.000 đồng.

4. Các đương sự được quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

5. Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

496
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/DS-ST ngày 12/03/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:06/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về